NHỚ KỶ NIỆM NGÀY ĐI THAM GIA LỚP ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG “ HUẤN LUYỆN BIỆT KÍCH “
Xong công việc hàng ngày mỗi sáng, vào mở máy. Đọc mấy bình luận, thư từ của bạn bè mới rê con chuột vào mục kết nối bạn bè. Gần 40 năm dạy học , bây giờ đọc Họ, Tên nào cũng cảm thấy quen quen. Quan sát hình ảnh đâị diện gương mặt nào cũng hình như đã gặp ở đâu. Quan sát mãi nét cười đôn hậu và đôi mắt dịu hiền tôi cố lục tìm người bạn này là ai. Rồi cũng lục tìm được trong bộ nhớ già nua như bộ nhớ trong chiếc máy tính ọc ạch của tôi sử dụng đã hơn chục năm nay. Người đề nghị kết nối là anh bạn từng cùng tham gia lớp “ đào tạo biệt kích “ cách đây 46 năm chưa một lần gặp lại. Bấm chấp nhận kết nối cho anh rồi ngồi chép lại kỷ niệm ngày mình được ưu tiên chọn đi dự lớp ‘đào tạo biệt kích “ này. Đã 46 năm trôi qua, tôi vẫn không biết nên vui hay buồn bởi trong cùng một thời gian diễn ra nhiều sự kiện .
Năm 1972 Không quân Mỹ ném bom , bắn phá ác liệt toàn miền Bắc đặc biệt là vùng khu Bốn quê hương tôi. Gần hết năm học 1971 – 1972 tôi nhận điện báo từ gia đình : Nghỉ hè ở lại trường, không về quê. Nội dung bức điện là mệnh lệnh bắt buộc bởi hệ thống giao thông bị đánh phá, không tàu hoả, không xe khách và cái chết luôn rình rập trên đường vào khu Bốn.
Năm 1972 Không quân Mỹ ném bom , bắn phá ác liệt toàn miền Bắc đặc biệt là vùng khu Bốn quê hương tôi. Gần hết năm học 1971 – 1972 tôi nhận điện báo từ gia đình : Nghỉ hè ở lại trường, không về quê. Nội dung bức điện là mệnh lệnh bắt buộc bởi hệ thống giao thông bị đánh phá, không tàu hoả, không xe khách và cái chết luôn rình rập trên đường vào khu Bốn.
Cũng mùa hè năm 1972 đang tham gia chấm thi tại Hội đồng Chấm thi tốt nghiệp cấp III của Tỉnh Vĩnh Phú đặt tại Cẩm Khê, tôi được gọi đột xuất về trường làm Hồ sơ đi công tác B. Mặc dù đã nhận tin báo phải ở lại trong dịp hè nhưng Chấm thi xong tôi quyết định về quê bởi hai lý do : Một là đường vào khu Bốn bị đánh phá ác liệt nhưng mai kia vào chiến trường, chiến tranh sẽ tàn khốc, ác liệt hơn nhiều. Về quê lần này là chuyến thử thách , tôi luyện ban đầu của bản thân mình. Hai là, tại thời điểm ấy tôi sở hữu những hai chiếc xe đạp, một chiếc Phượng Hoàng, một chiếc Shang hải. Lần về quê này tôi sẽ để 1 xe đạp ở nhà nếu không sau đi B việc gửi xe về sẽ khó khăn hơn.
Lại giành mấy dòng về chuyện tại sao một mình mà tôi có những hai chiếc xe đạp
Những năm 70 của thế kỷ XX, một cán bộ nhà nước sở hữu một chiếc xe đạp giá trị như những năm 18 – 19 của thế kỷ XXI một Công chức, Viên chức Nhà nước sở hữu một chiếc Ô tô cá nhân. Ra trường đi dạy học từ khu Bốn về Vĩnh Phú mà tôi vẫn không có phương tiện đi lại cá nhân. Hè năm 1971, về quê UBND xa tổ chức Báo tử và làm lễ Truy điệu anh trai kề tôi hy sinh ở chiến trường B. Toàn bộ số tiền chế độ Liệt sĩ của người anh vẻn vẹn 700 đồng ( bảy trăm đồng ). Tôi tốt nghiệp Đại học, dạy học đã 4 năm mà lương cũng chỉ 60 đồng / tháng. Cha tôi đưa toàn bộ số tiền cho tôi để mua một chếc xe đạp. Số tiền này đủ mua một chiếc xe đạp Liên Xô ngoài thị trường. Nếu mua xe cung cấp hay phân phối thì chỉ mất hơn 200đ ( cung cấp ) , trên 300đ ( phân phối ) nhưng tôi là Giáo viên mới ra trường, còn “ mọt thớt “ mới được hưởng chế độ ấy. Được Cha cấp tiền nhưng tôi không biết mua xe Liên Xô ở đâu vì nói bán tự do nhưng xe rất khan hiếm. Tôi để lại 700 đ cho anh trai tôi là Giáo viên miền núi lâu năm được mua cung cấp một xe Phương Hoàng đem đi. Anh tôi dạỵ học trong tỉnh và đi lại nhiều nơi, hiểu biết hơn nên giao trách nhiệm mua xe mới cho anh. Thế là vào năm học tôi có xe đạp nhưng Đăng ký xe đạp ( như xe máy bây giờ ) vẫn mang tên anh tôi. 20-11 năm 1972 trường tôi được phân phối một xe Shang hai. Tiêu chuẩn thuộc về một Giáo viên khác nhưng ông này vi phạm “ ăn cơm trước kẻng “ của nhà mình nên bị cắt tiêu chuẩn. Sau khi cẩn thận kiểm tra Đăng ký xe tôi đang đi không chính chủ, tôi may mắn được mua xe thế vào tiêu chuẩn của người khác. Nhờ bạn đi một xe vượt hơn 500 km trên con ngựa sắt từ Vĩnh Phú về quê, tôi cho anh trai trưởng chiếc xe Phượng Hoàng, còn tôi dùng chiếc Shang hai mới. Mùa hè năm ấy phải tập xe cho ông anh để đi. Ông đi bộ đội từ năm 1959. Năm 1970 sau khi mất sức chiến đấu, để lại một phần xương máu ở chiến trường, năm 1970 anh xuất ngũ. Hết hè tôi lại chung thuỷ với con ngựa sắt ấy quay ra Vĩnh Phú.
Những năm 70 của thế kỷ XX, một cán bộ nhà nước sở hữu một chiếc xe đạp giá trị như những năm 18 – 19 của thế kỷ XXI một Công chức, Viên chức Nhà nước sở hữu một chiếc Ô tô cá nhân. Ra trường đi dạy học từ khu Bốn về Vĩnh Phú mà tôi vẫn không có phương tiện đi lại cá nhân. Hè năm 1971, về quê UBND xa tổ chức Báo tử và làm lễ Truy điệu anh trai kề tôi hy sinh ở chiến trường B. Toàn bộ số tiền chế độ Liệt sĩ của người anh vẻn vẹn 700 đồng ( bảy trăm đồng ). Tôi tốt nghiệp Đại học, dạy học đã 4 năm mà lương cũng chỉ 60 đồng / tháng. Cha tôi đưa toàn bộ số tiền cho tôi để mua một chếc xe đạp. Số tiền này đủ mua một chiếc xe đạp Liên Xô ngoài thị trường. Nếu mua xe cung cấp hay phân phối thì chỉ mất hơn 200đ ( cung cấp ) , trên 300đ ( phân phối ) nhưng tôi là Giáo viên mới ra trường, còn “ mọt thớt “ mới được hưởng chế độ ấy. Được Cha cấp tiền nhưng tôi không biết mua xe Liên Xô ở đâu vì nói bán tự do nhưng xe rất khan hiếm. Tôi để lại 700 đ cho anh trai tôi là Giáo viên miền núi lâu năm được mua cung cấp một xe Phương Hoàng đem đi. Anh tôi dạỵ học trong tỉnh và đi lại nhiều nơi, hiểu biết hơn nên giao trách nhiệm mua xe mới cho anh. Thế là vào năm học tôi có xe đạp nhưng Đăng ký xe đạp ( như xe máy bây giờ ) vẫn mang tên anh tôi. 20-11 năm 1972 trường tôi được phân phối một xe Shang hai. Tiêu chuẩn thuộc về một Giáo viên khác nhưng ông này vi phạm “ ăn cơm trước kẻng “ của nhà mình nên bị cắt tiêu chuẩn. Sau khi cẩn thận kiểm tra Đăng ký xe tôi đang đi không chính chủ, tôi may mắn được mua xe thế vào tiêu chuẩn của người khác. Nhờ bạn đi một xe vượt hơn 500 km trên con ngựa sắt từ Vĩnh Phú về quê, tôi cho anh trai trưởng chiếc xe Phượng Hoàng, còn tôi dùng chiếc Shang hai mới. Mùa hè năm ấy phải tập xe cho ông anh để đi. Ông đi bộ đội từ năm 1959. Năm 1970 sau khi mất sức chiến đấu, để lại một phần xương máu ở chiến trường, năm 1970 anh xuất ngũ. Hết hè tôi lại chung thuỷ với con ngựa sắt ấy quay ra Vĩnh Phú.
Mải câu chuyện xe đạp, giờ trở lại câu chuyện tôi đi dự lớp “ đào tạo biệt kích “. Cái tên này là do Đài đich ( miền Nam ) đặt cho chứ thực chất tên trường là Trường Bồi dưỡng Cán bộ đi công tác B.
Tháng 12 năm 1972 Mỹ dùng máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Linh. Thương tôi bơ vơ, sống một mình xa quê , bố mẹ vợ tôi quyết định cho tôi “ đến ở với người yêu “ lấy gia đình bố mẹ vợ tôi đi về những ngày nghỉ lễ, chủ nhật. Trong hoàn cảnh ấy việc cưới vợ Cơ quan, Công đoàn nơi tôi dạy học chăm lo giúp đỡ. Anh bạn cùng quê đạp xe về Hà Nội nhờ học sinh cũ giúp đỡ mua được 30 kg bánh kẹo về Tổ chức liên hoan đời sống mới . Anh đến gần trường thì bị Cơ quan phòng Thuế bắt giữ. Họ kết tội anh đi buôn lậu. Nói mãi họ không tin, bắt về trường lấy Giấy chứng nhận đến rồi họ mới cho lấy bánh kẹo về.
Tháng 12 năm 1972 Mỹ dùng máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Linh. Thương tôi bơ vơ, sống một mình xa quê , bố mẹ vợ tôi quyết định cho tôi “ đến ở với người yêu “ lấy gia đình bố mẹ vợ tôi đi về những ngày nghỉ lễ, chủ nhật. Trong hoàn cảnh ấy việc cưới vợ Cơ quan, Công đoàn nơi tôi dạy học chăm lo giúp đỡ. Anh bạn cùng quê đạp xe về Hà Nội nhờ học sinh cũ giúp đỡ mua được 30 kg bánh kẹo về Tổ chức liên hoan đời sống mới . Anh đến gần trường thì bị Cơ quan phòng Thuế bắt giữ. Họ kết tội anh đi buôn lậu. Nói mãi họ không tin, bắt về trường lấy Giấy chứng nhận đến rồi họ mới cho lấy bánh kẹo về.
Ngày 6-Giêng -1973 tôi cưới vợ
Ngày 8 – Giêng – 1973 Lãnh đạo trường cho người đến gia đình vợ thông báo miêng cho tôi : Ngày 12 – Giêng – 1973 có mặt tại trường cấp III Vĩnh Tường để đi công tác B.
Sáng ngày 12- Giêng hai vợ chồng, một người một chiếc xe xuất phát. Vợ tôi về Trường Bưu điện Nam Hà tiếp tục đi học. Vợ tôi là cán bộ được cử đi học về phục vụ nghành BĐ. Cầu Việt Trì bị đánh phá hư hỏng nặng. Tàu hoả xuất phát từ Ga Bạch Hạc. Đưa vợ lên tàu xong tôi đạp xe về trường cấp III Vĩnh Tường thì đoàn Cán bộ Vĩnh Phú đã xuất phát từ sáng sớm. Hỏi Cán bộ Ty Giáo dục phụ trách còn ở đấy , tôi mới biết chúng tôi về tập trung học tập tại trường Bồi dưỡng Cán bộ đi công tác B tại Thị trấn Bần, Yên Nhân, Hưng Yên. Lại hỏi đường, lại đạp xe vượt qua bãi bom B52 ở Đông Anh về trường
Ngày 14- Giêng – 1973 nhà trường nơi tôi công tác mang điện báo đến gia đình vợ tôi báo tin : Cha tôi đã mất. Biết vậy nhưng gia đình vợ tôi không thể báo tin cho tôi vì không có địa chỉ để điện báo hay thư từ.
Cũng tuần Chủ nhật đầu tiên sau ngày học, nhà trường cho một giáo viên quê ở Bạch Hạc vừa về nghỉ chủ nhật, vừa vào tìm tôi ở trường cấp III Vĩnh Tường để báo tin. Đến trường hỏi thăm, họ không biết tôi là ai vì tôi chỉ là người đoàn Giáo viên ghé qua trường họ một thời gian rất ngắn mà thôi. Quay lại trường thấy giáo nọ báo cáo không gặp tôi và không biết tôi đi đâu. Một thông tin truyền miệng nhau : Sợ vào chiến trường B. Ngại khó khăn gian khổ, tôi đã trốn đi theo vợ. Thông tin này do học trò là anh em bên nhà vợ tôi học tại trường cung cấp. Bố mẹ vợ tôi nhận tin rất uất ức nhưng cũng không biết thực hư ra sao.
Đạp xe tìm đến nơi cần đến, sau khi làm thủ tục chúng tôi được nghỉ một tuần để trường chuyển từ nơi sơ tán về địa điểm cũ. Tôi không về nhà vợ vì lại phải đạp xe gần 200km mà nhảy về Trường Bưu điện nơi vợ tôi học chỉ cách khoảng 70 cây số. Học cùng lớp với vợ, có mấy anh cùng quê tôi. Sau tết trở lại trường, họ báo tin cho vợ tôi là cha tôi đã mất. Gặp nhau, vợ tôi không nói gì chỉ giục : Được nghỉ một tuần hai vợ chồng tranh thủ về quê. Khoảng 21 giờ nhảy tàu từ Phủ Lý mà đến 17 giờ hôm sau mới đặt chân đến đầ xã quê nhà. Người quen đầu tiên gặp tôi vừa gửi lời hỏi thăm và chia buồn thì tôi mới biết Cha mình đã mất. Một cảm giác khó tả. Tôi muốn khóc mà không khóc được . Cổ họng như nghẹn lại. Lồng ngực nẵng trĩu như núi đá chẹ vào. Hai vợ chồng không nói với nhau một lời nào nữa. Im lặng, lầm lũi đi nhanh về nhà. Tôi chỉ oà lên nức nở khi gặp người thân đầu tiên.
Một mùa xuân nẵng trĩu trong tôi.
Trở lại trường tôi mới chính thức găp các thành viên đoàn Vĩnh Phú chỉ có 6 người gồm Thầy giáo Phạm Vĩnh ( Hạ Hoà ), Thầy Lê La, Lê Long ( Hùng Vương ), Thầy Phan Hách ( Long Châu sa), Thầy Hồng ( Việt Tì ) và tôi. Tôi và Thầy Phạm Vĩnh đã dạy học cùng trường. Và hôm nay sau 46 năm, tôi được Kết nối cùng với 1 trong 5 thầy giáo cùng dự lớp Bồi dưỡng. Cũng có Thầy đã đi xa. Trường Bồi dưỡng Cán bộ đi Công tác B dành cho nhiều đối tượng, nhiều ngành khắp toàn miền Bắc. Khi mọi việc ổn định tôi viết thư về cho bố mẹ vợ thông báo diễn biến những ngày qua. Sau này về nghe cánh em út trong nhà kể lại, nhận thư tôi, biết rõ ngọn ngành ông bố vợ tôi bực quá, chửi rất tục mấy anh giáo trường tôi dám phao tin đồn nhám làm mất danh dự con rể ông.
Trong 2 tháng chúng tôi được Bồi dưỡng thêm về Đường lối, quan điểm giáo dục và tình hình giáo dục vùng Giải phóng miền Nam. Điêu quan trọng nhất là chúng tôi được bồi dưỡng thêm về vật chất cũng như tinh thần nên anh nào cũng tăng cân. Trong một lần lên lớp, một Giảng viên trích dẫn câu nói : Phàm xoay cái thế Thiên hạ ở Trí chứ không phải ở lực; Thu tấm lòng Thiên hạn ở Nhân chứ không phải ở bạo " ( Nguyễn Dự ) cứ đeo đẳng theo tôi giúp tôi rèn luyện, phấn đấu làm theo suốt cả cuộc đời . Kết thúc lớp Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Chưởng về gặp gỡ, dặn dò và động viên chúng tôi trở lại trường tiếp tục công tác, sẵn sàng khi có lện là lên đường. Rẽ qua thăm vợ câu đầu tiên được hỏi là : Anh bị ong đốt à. Tôi cười bởi mặt tôi tròn như chiếc đĩa sau hai tháng được vỗ béo.
Trong 2 tháng chúng tôi được Bồi dưỡng thêm về Đường lối, quan điểm giáo dục và tình hình giáo dục vùng Giải phóng miền Nam. Điêu quan trọng nhất là chúng tôi được bồi dưỡng thêm về vật chất cũng như tinh thần nên anh nào cũng tăng cân. Trong một lần lên lớp, một Giảng viên trích dẫn câu nói : Phàm xoay cái thế Thiên hạ ở Trí chứ không phải ở lực; Thu tấm lòng Thiên hạn ở Nhân chứ không phải ở bạo " ( Nguyễn Dự ) cứ đeo đẳng theo tôi giúp tôi rèn luyện, phấn đấu làm theo suốt cả cuộc đời . Kết thúc lớp Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Chưởng về gặp gỡ, dặn dò và động viên chúng tôi trở lại trường tiếp tục công tác, sẵn sàng khi có lện là lên đường. Rẽ qua thăm vợ câu đầu tiên được hỏi là : Anh bị ong đốt à. Tôi cười bởi mặt tôi tròn như chiếc đĩa sau hai tháng được vỗ béo.
Trở về trường cũ, mọi người im ỉm không dám hé răng về chuyện cũ. Tôi thì cũng không đặt lại vấn đề vì việc gì đã qua thì cũng đã qua rồi. Nhưng vất vả nhất là tôi phải nai lưng dạy bù chương trình hai tháng đi Bồi dưỡng vì Ty không điều được người thay thế mà bộ môn tôi thì cả trường chỉ có một người. Ngày nào cũng 5 tiết. Hết năm học đề nghị thanh toán dạy thừa giờ Lãnh đạo trường ( Tôi dùng từ Lãnh đạo bởi trường tôi mấy năm không có Hiệu trưởng, Phó HT mà chỉ có một người Phụ trách trường nhưng cũng chỉ nghe nói được phân công bằng … miệng ) bảo do hai tháng chưa dạy thì nay dạy bù không có tiền thanh toán chế độ. Tôi cự lại và báo cáo về Sở. Tất nhiên tôi thắng cuộc
.
.
Sau giải phóng miền Nam, trường tôi nhiều giáo viên được điều động tăng cường chi viện cho Giáo dục miền Nam. Đang độ tuổi Thanh niên, lại làm Bí thư Đoàn Tn tôi cũng viết đơn tình nguyện đi Nam nhưng đơn từ của tôi không được xem xét. Lý do không được xem xét có thể do tôi ở một trong hai thái cực, hoặc là người xấu, kém cỏi không thể chi viện cho miền Nam, hoặc là tôi là thằng tạm làm được việc như người khác nên phải giữ lại. Và đến bây giờ tôi vẫn sống trên mảnh đất này .
Tháng 10- 2019
N C
N C
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét