Một bông hồng cho Cha
|
Vietsciences-
Võ
Hồng 05/05/09 - trích từ quyển Một bông hồng cho Cha
|
Trong thời hồng
hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ
nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và
hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc
quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống
cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau
này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay
mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng,
cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần
linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng
đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà
tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai
tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ chân, huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu
nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa
nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những
nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi
trán. Lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được,
rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn
ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân
công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “Ùi ùi! Coi
chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt
tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành
nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã
vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí
phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà
cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi
nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người
khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con
ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi? Cha phải ngây ngô theo,
con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?” Rờ cái đít nung
núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây? Ai ra mua!” Quả là
những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác
nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học,
cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là
nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh
lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn,
năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con
cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức
hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần
nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quít cha con chỉ
thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn
là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con
ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răn.
Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì
không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau,
mẹ vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi
cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm
như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo
thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy,
bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết
được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa
con nhỏ của họ.
Tìm trong văn
chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như
núi Thái Sơn.
Núi này nhất
định là phải lớn lắm và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm
động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự
tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc
khẩu hiệu.
Người cha quen
thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì đã vẽ ra là một người biết làm bổn phận: bổn
phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên
bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo
rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong
cuốn Luân lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về
cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chạy
ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái
cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cảm
con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương
vợ.
Cổ văn thường
nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là
Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, Nhân gặp Thạch Man
Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng
hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi
mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe
tới chỗ hai cô con gái của bạn ế chồng, Phạm liền ngắt lời hỏi:
– Sao con không
cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt
cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong
nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của
mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao
nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha.
Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài
xã hội mang về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng
tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mình. Sự cách xa giữa cha con
thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy
êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn
trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy
thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên
Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không
muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như
cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân
vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chia
những cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che
nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải
nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ
chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười
ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn
giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy
nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt
phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu
ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về.
Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn
mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc
bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn
mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít
cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả
bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt
vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một
người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.
Phải, tuổi càng
cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn
hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đó, chớ mắt mờ đâu còn
thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc đẩu mà mới ngày nào lững
thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang
tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu
cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chễnh mảng thì thiếu
chi lý lẽ dẫn ra: “Được vậy còn đòi gì nữa?... Trời ơi, thì giờ đâu!”
Phải, thì giờ
đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi
thân bất đãi”, con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi
trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng
nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm
rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá”. Cha
thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi
bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn
cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều
quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn
định thần tỉnh”, ta dịch: “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn
nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay
con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt
cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có
gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giải bày.
Gần như mọi
người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm
trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên
trong mỗi bức thư gởi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã
học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho
con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ
món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu,
chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như
bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần. “Đi đâu đó? Mạnh
giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con
gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn
ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan,
nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để
tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha.
Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ
song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất, cha
còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ
đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng
trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường
cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ,
rồi sẽ một ngày:
Đỉnh hoa biểu
từ khơi bóng hạc1
nên mỗi người
con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi
tình cha thương con là “cho” chứ không phải “cho vay” để có thể
gọi là trả đủ.
1 Cha mẹ mãn phần (Nhị thập tứ hiếu)
© http://vietsciences.org
và http://vietsciences.free.fr Võ Hồng
|
||||
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét