Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

Hồi ký



                           Mảnh đời tôi
Lời  tự truyện : Tôi là người có cuộc sống bình thường không có gì để lại cho đời, cũng không có khả năng viết văn, viết truyện . Tôi chỉ ghi chép cuộc sống mình đã đi qua  để thỉnh thoảng ôn lại “ ngày xưa yêu dấu”  và có dịp con cháu hiểu thêm  thế hệ cha ông đã sống thế nào. Không biết ghi chép của tôi tuân theo thể loại gì nên tạm gọi là Hồi ký. Cuộc sống của một đời người phong phú, đa dạng, ghi chép này chỉ phản ánh một nét của cuộc sống đa dạng đó nên chỉ là : Mảnh đời tôi


Hình ảnh


Mảnh đời tôi     

      
                                Học trò

Tôi sinh ra ở  một  vùng quê miền trung đầy nắng gió. Ngôi nhà tranh thân yêu nấp dưới bóng những cây cổ thụ um tùm và những hàng cau thẳng tắp. Cây khế cuối vườn mùa xuân nở đầy hoa tím lẫn những quả non xanh.  Phía Tây là lùm cây râm rạp. Mấy đứa bạn cùng tuổi thường rủ nhau vào khu vườn  để trèo cây, hái hoa dại về trang trí những căn nhà mà chúng tôi lấy cây cọc cùng nhau thiết kế làm trò chơi. Cuối làng là con sông Giăng hiền hoà nước trong xanh và rất nhiều tôm, cá. Lòng sông trải đầy  những viên đá cuội trắng, đen lẫn cát vàng sạch bóng. Nước sông trong xanh, mát lạnh. Hai bên bờ sông là những bãi đất được bồi đắp bởi phù sa màu mỡ. Những ngôi nhà, những xóm nhỏ nép dưới luỹ tre xanh. Những vườn đủ các loại cây ăn quả sum suê bóng mát. Dòng sông quê ghi dấu ấn bao kỷ niệm của tuổi ấu thơ mà tôi mang theo cả suốt cuộc đời. Bến sông là nơi tụ hội của cả dân làng mỗi sáng qua chuyến đò ngang để lên  nương, làm rẫy … Bến sông cũng là nơi mà mỗi buổi trưa hè lũ trẻ chúng tôi tha hồ bơi lội, ngụp lặn hàng tiếng đồng hồ trong dòng nước mát; Mỗi chiều tà khi mặt trời sắp xuống núi,  cũng là nơi tụ tập sau một ngày vui chơi hay lao động, nơi gặp gỡ bạn bè nhất là tuổi thiếu niên, lứa tuổi đang trưởng thành, cần giao tiếp học trở thành người lớn.

Đầu làng hai cây bàng cổ thụ như hai vệ sĩ canh giữ sự bình yên đón chào những người con đi xa trở về cũng như khách ghé vào làng. Con đường cái quan ngoằn ngoèo nối liền các xã trong vùng. Dù là đất cuối huyện, nhà tôi vẫn là nơi tiếp xúc nhiều người qua lại. Họ là những người bán hàng rong. Họ là người bán thuốc lào, thuốc nam chữa bệnh, những người thỉnh thoảng đến chợ phiên. Họ là những đoàn người tốp năm, tốp bảy, vài ba lon gạo trên vai ngày ngày lên tận phía dãy Giăng Màn thuộc đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ khai thác gỗ nứa rồi theo dòng sông Giăng chuyển về xuôi. Dù nhà nghèo lại đông con nhưng gia đình tôi chưa bao giờ từ chối những người qua đường vào nghỉ nhờ hay xin nước uống. Cũng có người găp bữa cơm, cả nhà chỉ thêm bát thêm đũa cùng chia sẻ với khách qua đường. Thái độ cư xử vui vẻ, vô tư của cha mẹ từng ngày, từng việc làm  đã thâm nhập và thấm sâu vào cách sống của anh em tôi.

Cha, mẹ tôi sinh được bốn anh em trai, mà tôi là con út. Là con út nên tuy đã đi học cấp I , tôi vẫn được ngủ chung với mẹ. Mẹ kể cho tôi  chuyện cổ tích mà mẹ biết, hát cho tôi những làn điệu ca dao, dân ca xứ Nghệ. Đêm về mẹ thường ôm vào lòng hát ru đưa tôi vào giấc ngủ, dù suốt ngày mẹ đã phải lao động nhọc nhằn để có cái ăn nuôi bốn anh em khôn lớn. Mẹ kể rằng tôi sinh ra vào năm Đinh Hợi. Nhà đã có ba con trai nên cha tôi khát khao mẹ sinh cho cha một người con gái. Khi mẹ sinh tôi, cha còn đi khai thác lâm sản trên rừng đem bán, lấy tiền nuôi cả gia đình. Về nhà biết tôi là con trai, cha chán chường đã bỏ đi mấy ngày liền . Tiền lâm sản bán được, cha đã rót vào quán rượu và những canh bạc để không còn một đồng xu dính túi mới trở về nhà. Thế nhưng sau này, trong bốn anh em, cha thương yêu  chăm chút con út của cha nhất. Cưng chiều con út cũng là lẽ thường tình, nhưng với tôi tình thương yêu của cha còn là sự thể hiện tình cảm ăn năn, hối hận của cha đối với mẹ. Vì khi mẹ sinh tôi, cha đã có những lúc không cảm thông, chia sẻ với khó khăn của mẹ lúc sinh nở. Tôi thì không giận, chỉ thương cha và trách   ông trời không cho  tôi làm phận gái để cha được vui lòng.

Nhà nghèo nhưng cha mẹ tôi là những người giàu tình thương yêu con người, trọng lẽ phải và hết lòng vì con cái. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, người dân được sống trong hoà bình. Chỉ biết vài chữ để đánh vần khi đọc, phải điểm chỉ thay chữ ký vào các giấy tờ là một thiệt thòi lớn nhất trong cuộc đời cha mẹ tôi. Khát khao cháy bỏng của cha mẹ tôi là các con được đi học. Học để biết chữ. Học để làm người. Tôi vẫn nhớ nhiều lần cha nói với anh em tôi :  Cha mẹ không có tài sản gì đáng giá để lại cho các con sau này, chỉ muốn để lại cho các con cái chữ. Dù nhà nghèo, Cha mẹ vẫn cố gắng lo cho các con ăn học. Chỉ lo các con không học được. Xã hội còn có nơi để học, các con còn muốn đi học thì cha mẹ quyết lo cho các con được học tới cùng.

Với tâm niệm thực hiện ý nguyện của cha mẹ và khát khao biết chữ mà anh em tôi ai cũng cố gắng trong học tập.  Gia đình tôi là một trong những gia đình dù  chưa được học nhiều, học hành chưa đến nơi, đến chốn, nhưng cả bốn anh em đều được đến trường và thuộc loại gia đình con cái học hành khá giả lúc bấy giờ ở cái làng quê nghèo khó ấy.

Khi anh trai kề tôi đi học Vỡ lòng (  mẫu giáo 5 tuổi hiện nay), do không có người cùng chơi nên tôi theo anh ra lớp. Thương tình, thầy giáo dạy anh mà chúng tôi vẫn quen gọi là cậu Hồng cho tôi ngồi cạnh anh . Ngồi bên anh, không có gì chơi, tôi chăm chú dõi theo những điều cậu Hồng dạy các anh. Về nhà anh học bài tôi cũng tò mò ngồi bên cạnh. Ngày qua ngày, tôi biết chữ. Thấy tôi nhận thức được, thầy Hồng cho tôi cùng học và thế là hai anh em ngày ngày cùng cắp sách đến trường. Nói là trường cho oai chứ lúc bấy giờ trường chỉ có một lớp, mà lớp học đặt tại ngôi chùa của làng tôi. Thầy giáo chúng tôi trưa tối về ăn cơm nhà (vẫn nói cho oai chứ chủ yếu là ăn ngô, khoai, sắn thay cơm ) Đi dạy học là tình cảm, là trách nhiệm của một công dân thực sự làm chủ đất nước chứ không hề được hưởng chút đãi ngộ nào. Dù còn nhỏ tôi biết chắc điều đó vì sau này khi lớn hơn, học cấp I, làng tôi những gia đình kinh tế khá giả có con đi học đều đón thầy giáo về nhà nuôi, để thầy đi dạy học. Nhà tôi nghèo, không đón nuôi được thầy  nhưng những ngày giỗ tết cha tôi đều mời thầy đến chung vui với gia đình như một sự biết ơn, tri ân với thầy giáo.

 Là người cương trực, nóng nảy nhưng cha tôi là người giàu tình thương, dễ xúc cảm. Tôi nhớ mãi một chiều mưa, cả nhà quây quần ngồi vẽ ngô sau mùa thu hoạch. Tôi nhỏ nhất nhà nên mấy anh tôi bàn chỉ giao cho tôi phải vẽ hết 100 bắp mới được đi chơi. Thấy phải vẽ 100 bắp nhiều quá tôi đề nghị các anh chỉ vẽ 10 chục bắp thôi. Cả nhà cười vỡ bụng. Sau một phút ngây người, rồi tôi chợt hiểu 10 chục cũng chính là 100. Cả nhà cười xong, cha tôi bảo các anh tha cho tôi không phải vẽ ngô mà đọc truyện cho cả nhà cùng nghe. Truyện là những bài trong quyển Trích giảng văn học, sách giáo khoa lớp 7 mà anh tôi đang học. Hôm ấy tôi đọc bài Chị Dâụ trích trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố. Khi đọc đến cảnh chị Dậu phải đứt ruột nài nỉ bán con, bán cả đàn chó cho nhà Nghị Quế, lấy mấy đồng bạc đóng suất sưu cho người em chồng đã chết để cứu chồng đang bị trói ở ngoài đình làng thì cha tôi bật khóc. Rồi mẹ tôi cũng khóc. Không khí trầm hẳn xuống . Mâý anh em tôi âm thầm nhìn nhau lặng lẽ. Tôi xúc động và không đọc tiếp được phần còn đọc dở.

Sau chiến thắng Điện Biên lừng lẫy, nhân dân được sống trong không khí hoà bình.  Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, dù khu Bốn không xảy ra chiến sự nhưng tôi từng chứng kiến máy bay Pháp ném bom nơi chúng nghi ngờ công binh xưởng của ta sơ tán. Hai chữ hoà bình thật có ý nghĩa to lớn cho những người đã sống, đã đi qua  chiến tranh. Hơn chừng một năm sau, Đảng và Nhà nước phát động cuộc cải cách ruộng đất, tịch thu  tài sản của cường hào, địa chủ chia cho dân nghèo. Mỗi xóm có một cán bộ đội cải cách về nằm vùng để phát động phong trào quần chúng. Nhân dân thường gọi là Đội. Dù còn nhỏ nhưng qua người lớn và cha mẹ , tôi biết ai cũng sợ Đội. Đội có quyền quyết định thành phần, giai cấp, quyết định sinh mạng chính trị, kinh tế thậm chí cả sự sống chết của người dân. Đội là nỗi ám ảnh thường trực trong những gia đình kinh tế khá giả. Những gia đình có nhiều ruộng, nhiều trâu, có nhà ngói, sân gạch nuôi người ở giúp việc trong nhà được xếp vào thành phần địa chủ, bóc lột. Tiếp đến là phú nông, trung nông, tuỳ vào số tài sản, ruộng đất mà họ có. Đến bần nông và cố nông là những tầng lớp nghèo không có ruộng cày. Gia đình bần cố nông ai cũng phấn khởi vì được chia ruộng, chia trâu từ các gia đình cường hào, địa chủ và phú nông. Gia đình tôi tuy nghèo nhưng cũng bị Đội tịch thu mất một con trâu đem chia cho gia đình Đội  ở để thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất. Nhà tôi có những ba con trâu, hai con đã cày bừa được còn một con còn nhỏ. Trâu gia đình tôi có được là do nuôi thuê của một gia đình ở huyện khác theo phương thức khi trâu sinh sản thêm thì được chia đôi. Nhà tôi  còn bị quy kết có mối liên hệ với giai cấp bóc lột vì ông bác lấy chị gái mẹ tôi thuộc thành phần phú nông. Chỉ vậy thôi nhưng tôi cũng bị bọn trẻ con tẩy chay không cho chơi cùng, trừ những trẻ là anh em trong dòng họ. Tất nhiên dưới sự chỉ đạo của người lớn. Nỗi cay đắng, lạc lõng gieo vào  một đứa trẻ tâm hồn còn trong trắng. Không có chỗ chơi, tôi phải theo cha mẹ đến  trường đấu  địa chủ, cường hào. Địa chủ đứng trước vành móng ngựa dựng lên bằng tre, hóp giữa sân đình làng. Cả ngày nông dân tố cáo tội ác mà tên địa chủ đã gây ra. Những tội ác chung chung như họ đã đi ở làm thuê cho nhà địa chủ, bắt phải đi cày, đi cấy đầu tắt, mặt tối … Tôi cũng chứng kiến những thanh niên hơn tôi chừng trên chục tuổi lên xỉa xói với thái độ căm thù tột đỉnh về những tội ác mà tên địa chủ đã gây ra với anh thời kỳ 1930- 1931. Lúc đó tôi chỉ biết ghi vào bộ nhớ nhưng chưa biết suy đoán. Sau này lớn lên nghĩ lại thấy tên địa chủ đã gây tội ác “tày trời” với anh kia khi cha mẹ anh ta chưa kết hôn với nhau. Tôi cũng được anh tôi là DQDK ( dân quân, du kích ) đưa đi xem nơi giam địa chủ. Nhà giam chính là nhà địa chủ. Phía ngoài có hai DQDK mang súng canh gác. Nhìn qua khe cửa tôi thấy hai cánh tay tên địa chủ bị trói quặt sau lưng, ngồi dưới đất dựa vào cột nhà. Nhưng tôi vội bỏ ra ngoài vì một mùi thối, mùi khai nồng nặc từ phòng giam bay ra. Ngày xử tội bọn địa chủ cường hào, cha mẹ không muốn tôi chứng kiến cản bắn giết, bắt tôi phải ở nhà một mình. Những tiếng hô “ đả đảo” và tiếng súng nổ chát chúa vẫn vọng về tận nhà tôi. Đó là một chiều mưa, cha mẹ tôi đi tập trung nghe xử án về bị ướt hết. Không khí  nặng nề, trầm lặng bao trùm.

Một thời gian sau cải cách ruộng đất, Đảng và Chính phủ tiến hành chính sách sửa sai. Nhiều gia đình được xuống thành phần, được minh oan . Nhưng những người đã bị xử bắn thì không bao giờ sống lại. Những tài sản bị tịch thu không đúng được trả về với chủ nhân của nó. Cha tôi bảo mấy anh em đến gia đình được Đội lấy trâu nhà tôi chia cho đòi trâu đem về. Mấy anh em chờ bên bến sông, nơi cuối mỗi ngày trâu bò được chăn dắt về đều đi qua đó. Anh tôi đòi lại trâu, chủ nhà không nói một lời nào. Cưỡi trên lưng trâu lòng tôi phơi phới, kiêu hãnh. Các anh tôi đi theo sau với niềm vui của người chiến thắng.

Học hết cấp I, tôi thi đỗ vào lớp 5 trường huyện. Anh trai tôi không may bị trượt. Anh buồn lắm và bỏ ăn mấy ngày liền. Không chỉ mình anh mà cả nhà tôi đều buồn. Mẹ cuống lên, chạy ra, chạy vào đứng ngồi không yên vì thương con. Cha thì lầm lì cả ngày không nói. Tôi băn khoăn, day dứt .Rồi cái gì phải qua cũng qua đi. Anh ở nhà đi chăn trâu giúp cha mẹ. Lúc này anh trai cả đã lên đường nhập ngũ. Anh hai tốt nghiệp cấp II cũng được đào tạo cấp tốc để đi dạy học. Huyện có trên 40 xã nhưng cũng chỉ có 4 trường cấp II Quốc lập và tư thục. Làng tôi năm đó chỉ có 2 người bạn khác, một trai, một gái cùng tôi được theo học lớp 5. Là xã ở cuối huyện cách xa trường. Tôi không biết trường cách nhà bao nhiêu cây số. Chỉ biết đường đến trường đi qua 5 xã khác, lại phải qua con sông Giăng có dòng chảy xiết và mùa Đông nước lạnh thấu xương. Rồi còn phải đi qua mấy dãy đồi hoang nữa mới đến được trưòng học. Ngày ấy, dân cư thưa thớt, ít người đi lại, cây cối hai bên đường rậm rạp, hoang vắng. Tôi được gửi ở lại gia đình nhà chị gái con anh trai mẹ tôi lấy chồng về xứ ấy. Đấy là lần đầu tiên tôi phải sống xa mẹ, xa nhà. Từ một đứa con út được nuông chiều, chỉ quen ăn, quen sống ỷ lại vào cha mẹ và các anh, bỗng dưng tôi phải sống tách biệt, độc lập với gia đình.  nhà là đứa bé nhưng bây giờ ngoài xã hội tôi đã là cậu học sinh cấp II. Mà học cấp II lúc đó được xã hội, mọi người coi trọng lắm. Tôi không khỏi ngỡ ngàng khi đến bữa ăn gia đình nhà chồng chị tôi lại chuẩn bị một mâm cơm cho tôi ăn trước. Nhà chồng chị tôi chỉ ăn cơm khi tôi đã ăn xong. Chính sự tôn trọng quá mức như vậy và thêm nỗi nhớ nhà nên sau một thời gian, thỉnh thoảng tôi trốn nơi ở trọ về nhà giữa tuần.

Được về nhà những ngay giữa tuần thật vui nhưng cũng có nhiều phiền toái. Phiền toái nhất là tôi thì sợ ma, mà muốn đến trường kịp giờ học thì phải dậy đi từ khoảng 4 hay 5 giờ sáng, khi mọi người, làng xóm còn chìm trong giấc ngủ. Chỉ sau ngày chủ nhật, sáng thứ hai có cả 2 người bạn cùng í ới gọi nhau đến trường tôi mới thực sự bình tâm .Ba anh em đều chờ đợi nhau mà không ai một mình đi trước, vì cả ba, đứa nào cũng nhát như thỏ đế.

Mỗi chủ nhật, mỗi lần nhớ nhà trốn về trong tuần là mẹ phải thức khuya dậy sớm chuẩn bị cho con thứ gì ăn trước lúc đến trường. Trăng mờ, gà gáy, mẹ không ngon giấc ngủ, lòng canh cánh lo gọi con dậy đi học đúng giờ. Nhiều lần vừa đi vừa ngủ gà, ngủ gật, đến trường mà trời chưa sáng rõ mặt người.

Năm sau khi tôi lên lớp 6 thì anh trai tôi thi đỗ vào lớp 5. Cả nhà tôi mừng lắm. Nỗi băn khoăn, lo nghĩ anh trai tôi thất học bây giờ được giải toả. Hai anh em lại được học cùng trường . Tôi không còn phải sợ ma khi đi học sớm. Xa nhà  có anh để nương nhờ, có anh che chở khi gặp khó khăn

Anh hiền va ít nói nhưng rất thương tôi. Có việc gì nặng anh đều làm thay tôi. Đường đến trường xa, anh mang liền cả hai túi sách cho tôi được đi không. Có gì ngon anh đều giành cho tôi phần nhiều, anh chỉ nhận phần ít hơn. Đi học về là anh săn sàng làm việc nhà giúp đỡ cho cha mẹ, giúp em. Tôi được cả nhà nuông chiều nên hay chơi, lười làm việc. Lúc còn nhỏ, có lần mẹ giao cho hai anh em quét sân. Thông thường quét sân vẫn phải quét từ phía trong ra ngoài ngõ. Với bản tính ham chơi, tôi nhận quét phần ngoài sân với ý nghĩ anh quét phần sân trong ắt phải quét qua phần ngoài sân. Và như vậy nghiễm nhiên tôi không còn phải làm công việc mình đã nhận. Nhưng cái ranh mãnh của tôi đã bị anh cho một bài học. Anh quét sạch phần sân anh nhận, gop rác lại, hót đi. Tôi chỉ biết đứng nhe răng cười rồi không còn cách nào khác, phải tự giác hoàn thành phần việc của mình.

Ba năm học cấp II chúng tôi có vô vàn kỷ niệm để nhớ. Ba năm mà phải học ở 3 địa điểm khác nhau. Mỗi lần chuyển trường là mỗi lần khiêng, vác bàn ghế. Lao động sao mà vui thế. Rồi những buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Đội thiếu niên. Những ngày tổ chức cắm trại, biểu diễn văn nghệ, thi báo tường, thi đấu thể dục thể thao vui nhộn. Những buổi ngoại khoá về các tác phẩm văn học, các thầy giáo đã mở cho chúng tôi những chân trời mới. Một phong trào đọc Tiểu thuyết lan rộng trong giới học trò. Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ chàng thanh niên Paven  Carơsaghin trong Thép đã tôi thế đấy. Thép đã tôi là lý tưởng sống, là cuốn sách gối đầu giường của thế hệ thanh thiếu niên chúng tôi. Tôi khâm phục Ruồi Trâu, rất thích Truyện Kiều. Nhiều tác phẩm văn học được chúng tôi chuyền tay nhau đọc ngấu nghiến. Theo thời gian và năm tháng cả một kho tàng văn học được lưu giữ trong trí nhớ của mỗi chúng tôi. Rồi mỗi năm học kết thúc, chia tay nhau lưu luyến để đón một mùa hè đầy nắng, đầy gió, đầy tiếng ve kêu và cháy đỏ mùa hoa phượng. Đã lớn nhiều rồi vẫn trốn mẹ để được cùng bạn bè thi nhau ngụp lặn giữa nước mát của dòng sông. Những chiều hè sau trận đá  bóng ngoài bãi chăn trâu, cả lũ nằm dài trên  cỏ tha hồ ngắm bầu trời xanh mênh mông mà thả trí tương tượng theo hình dáng của những giải mây tím, mây vàng.  Những đồi sim tím, bọn con trai, con gái tranh nhau hái từng quả sim tròn trĩnh, chín mọng. Những chiều thu êm đềm với bầu trời cao xanh trong vời vợi. Ký úc tuổi học trò vẫn mãi trong tôi. Những buổi tan trường, trên đường về nhà, hai ven đường là những cây quýt, cây bưởi trĩu quả. Chỉ vung lên một viên đá, nửa hòn gạch vỡ là cả bọn tranh nhau nhặt quả rụng rồi vắt chân lên cổ để… chạy, sợ chủ nhà đón bắt bọn học trò nghịch ngợm ,

Tuổi thiếu niên, tuổi thiếu niên tươi đẹp biết nhường nào, khi tương lai đang chờ đón bạn phía trước. Cơ thể họ đang lớn nhanh, thay đổi từng ngày tràn đầy sức sống như mùa xuân.  Cuộc sống  tươi đẹp, ước mơ được cống hiến sức trẻ cho tương lai luôn nồng cháy trong trái tim tràn đầy nhiệt huyết. Tâm hồn trong trẻo như nắng sáng mùa hè , thanh cao  như trời thu mênh mang, xanh trong.  Đêm đông lạnh lẽo là những gì xa vời không tồn tại trong con người họ.. Tuổi thiếu niên có bao nhiêu kỷ niệm đẹp theo ta suốt cả cuộc đời. Quên sao được bạn bè từng chăn trâu thuở nhỏ. Những ngày mưa dầm, cưỡi trên lưng trâu, áo tơi trùm kín mà vẫn râm ran bao thứ trên đời. Quên sao được những chiều hè ngụp lặn, be bờ đá ngăn dòng bắt cá trên sông. Quên sao được những đêm trăng, trên con đường làng tụm năm, tụm ba gái trai rảo bước, trò chuyện râm ran. Những năm chiến tranh giặc Mỹ dùng máy bay bắn phá, đêm đêm rực ánh sáng pháo dù tận đường số 7 vọng về. Rồi chúng tôi lớn lên, người nhập ngũ vào Nam chiến đấu, người đi thanh niên xung phong lấp hố bom, phá núi mở đường, người ở lại góp sức chăm lo công việc hậu phương. Tôi và một số ít may mắn được bước chân vào trường Đại học. Chúng tôi những bạn bè thân thích sinh ra, lớn lên từ xóm nhỏ với bao kỷ niệm vui buồn xa nhau từ đó, nhưng tên tuổi, tình cảm bạn bè vẫn mãi mãi trong trái tim tôi.

Lên cấp III tôi không được học cùng anh trai nữa. Không được vào lớp 8, anh tham gia đội thanh niên tình nguyện đi xây dựng các công trình thuỷ lợi. Anh lớn lên, trưởng thành và già dặn hơn nhiều trong thực tiễn cuộc sống. Nhưng nét mặt hồn hậu và đôi mắt hiền hoà của anh vẫn không thay đổi. Giữa năm tôi học lớp 8 thì anh lên đường nhập ngũ. Ngày anh lên đường, tan học tôi chạy một mạch từ trường đến địa điểm tập trung. Anh đã chỉnh tề trong hàng quân để lên đường  về đơn vị huấn luyện đi chiến đấu. Đó là lần cuối cùng tôi được gặp anh, người anh kính yêu mà suốt cả cuộc đời, mọi thuận lợi, những gì tốt đẹp anh đều giành cả cho tôi. Sau mấy tháng huấn luyện, anh vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Mấy năm trời biền biệt, khi rút quân về Bắc bổ sung lực lượng anh được ghé thăm nhà nhưng tôi cũng không được găp anh, Lúc đó tôi đang theo học trường Đại học sư phạm Vinh,  Do chiến tranh ác liệt, trường Vinh phải sơ tán tận một vùng núi xa xôi ngoài Thanh Hoá. Gia đình đã tổ chức đám cưới anh. Người yêu anh là cô gái cùng làng trước khi anh lên đường nhập ngũ, ngày đêm mong đợi anh về. Hạnh phúc vợ chồng, hạnh phúc gia đình với anh là cái gì vời vợi, xa xôi. Sống chung được một tuần, anh trở lại đơn vị tiếp tục vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam và vĩnh viễn không bao giờ về nữa.  Mãi 28 năm sau ngày tiễn anh nhập ngũ tôi mới tìm được phần mộ giữa nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn cùng hơn chục nghìn đồng đội bên anh. Anh hy sinh khi mới tròn 25 tuổi. Một chiều đông, mưa phùn gió bấc, tôi nức nở bên mộ nơi anh nằm. Nước mắt, nước mưa hoà lẫn. Bây giờ, tóc tôi đã bạc, đã có cháu gọi là ông, nhưng tôi vẫn là đứa em bé bỏng, dại khờ của anh .

Học trường huyện tôi có thêm nhiều bạn mới nhưng vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với những người bạn học từ lớp dưới. Anh Hồ Sỹ Tỵ, Hoàng Đình Cầm, là bạn thân từ các lớp cấp II, nay vẫn sống cùng chung nhà trọ. Anh Tỵ nhiều hơn tôi và Cầm mấy tuổi nên là chỗ dựa của chúng tôi trong cuộc sống. Cầm cùng tuổi tôi nhưng có nhiều tài, văn hay, chữ tốt, vẽ đẹp. Cầm là Cộng tác viên báo Thiếu niên Tiền phong khi còn học lớp 7. Tranh trang trí trong nhà đều do Cầm tự vẽ. Những người cao tuổi gần nhà đều nhờ Cầm vẽ chân dung để lại cho con cháu mai sau. Những năm học cấp II, Cầm làm Liên đội trưởng, tôi là Đội trưởng. Hai đứa học cùng một lớp. Cầm và tôi có nhiều điều tâm đầu, ý hợp nên chơi thân với nhau. Tôi hay đến nhà Cầm. Hai đứa thường đọc cho nhau nghe đoạn văn đang viết dở của bản thảo cuốn tiểu thuyết Làng Quê mà Cầm đang ấp ủ.  Nhưng  ở trường Cầm là người tinh nghịch. Trong giờ kiểm tra viết các môn phải  học thuộc lòng, hoc sinh lười thường gian lận mở vở để chép bài. Một lần, có bạn mở vở chép bài trong giờ kiểm tra bị thầy giao phát hiện và nhắc nhở.  Cầm đang cặm cụi làm nhưng cũng đọc vội câu thơ : “ Khen cho con mắt tinh đời ” ( Nguyễn Du ). Cả lớp vừa ngơ ngác vừa sợ thầy giáo mắng. Thầy giáo cũng bực mình muốn truy tìm cậu học trò nào lếu láo đã đọc câu thơ trên. Nhưng Cầm im lặng không tự nhận mà các bạn khác không ai giúp thầy phát hiện đối tượng. Thầy giáo tuyên bố sẽ đưa vấn đề này ra Hiệu bộ ?!

Tháng 8 năm 1965, Đế quốc Mỹ gây ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, lấy cớ dùng không quân đánh phá  miền Bắc, phá hoại hậu phương lớn nhằm giành thế chủ động ở chiến trưòng miền Nam. Thời gian đầu máy bay Mỹ chỉ bắn phá từ 9 giờ sáng đến 14 giờ chiều. Thời gian này được gọi là giờ cao điểm. Để đảm bảo an toàn, các trường học phải kết thúc trước 9 giờ và vào học sau 15 giờ trong ngày. Về sau máy bay Mỹ ném bom, bắn phá không hạn chế thời gian,. Trường tôi chuyển sang học đêm. Có nhiều kỷ niệm đáng nhớ từ các lớp học đêm này. Vì học đêm, mỗi học sinh phải mang theo một chiếc đèn dầu hoả. Trên bục giảng, thầy giáo cũng chỉ có một chiếc đèn Bão, là hàng viện trợ trong chiến tranh của Trung Quốc cho Việt Nam. Là người khôn ngoan, Cầm nhanh chân chọn hàng bàn thứ 2 từ trên xuống để nghe và ghi bài cho rõ. Thầy giáo dạy môn Vật lý là người đã cao tuổi , mắt và tai không còn tinh tường. Các anh chị lớp trước kể lại, thầy dạy dễ hiểu nhưng hơi lập dị và đặc biệt không thèm nhớ tên, nhớ mặt một học sinh nào. Lớp học ban đêm, dưới ánh đèn dầu hoả lờ mờ, kiểm tra bài cũ, thầy không dùng sổ gọi tên, ghi điểm. Từ bục giảng, thầy chỉ tay xuống lớp và gọi :“ Cậu lên bảng ”. Thế là học sinh nằm đúng trong tầm chỉ tay của thầy lên bảng trả lời bài kiểm tra. Kiểm tra xong thầy mới hỏi tên học sinh, cho điểm ghi vào giáo án hay sổ sách gì mà thầy mang theo. Không may cho Cầm, dãy bàn thứ hai là dãy bàn vừa vào tầm tay thầy chỉ xuống. Hôm ấy, Cầm vừa lên trả lời bài tập xong, trở về chỗ ngồi, thầy tiếp tục gọi học sinh thứ hai : “ Cậu lên bảng ” và chỉ tay xuống lớp. Tầm tay thầy chỉ vào khoảng hàng ghế thứ hai. Các bạn bên cạnh lại huých vào sườn Cầm : “ Thầy gọi mày đấy ” . Cầm lại lóp ngóp tiếp tục lên bảng trả lời bài tập. Ánh sáng mù mờ và đôi mắt không còn tinh tường đã không giúp thầy phát hiện học sinh kia vừa mới bị thầy gọi lên đọc bài. Cả lớp không dám cười to mà cố nín nhịn vì sợ thầy trị tội. Nhưng tệ hại thay, kịch bản lần thứ ba lại diễn ra đúng như hai lần trước. Lúc này không chịu nổi, cả lớp phá lên cười. Nhờ đó Cầm thoát nạn . Hôm sau Cầm không dám ngồi ở dãy bàn thứ hai nữa mà chạy xuống ngồi cùng tôi cuối lớp.

Lợi dụng kịch bản đó, nhưng với thầy giáo khác lại cho chúng tôi bài học nhớ đời về nhân cách làm người. Học cùng chúng tôi có bạn Hồng Văn Hải người gầy còm, nhỏ bé, lại bị nặng tai .Lợi dụng điểm yếu đó để đùa nghịch khi thầy giáo gọi học sinh lên bảng kiểm tra bài cũ, cánh bạn ngồi bên lại huých khuỷu tay vào Hải và bảo : Thầy giáo gọi mày đấy. Trong một buổi học Hải bị đẩy lên bảng  mấy lần. Nhưng sự việc không thoát khỏi đôi mắt của thầy giáo Vương Đình Huấn. Thầy Huấn dạy Toán giỏi nhưng lại đam mê Văn học. Sau này thầy gác “ thước kẻ ” theo nghiệp văn chương và trở thành nhà thơ Thạch Quỳ tên tuổi, gai góc như đá núi Quỳ ở Đô Lương quê hương thầy. Ăn quen bén mùi. Vẫn lợi dụng sự nhập nhèm của lớp học ban đêm, mấy bạn đẩy Hải lên bảng đọc bài thay một bạn khác. Biết vậy nhưng thầy Huấn vẫn để Hải lên bảng chữa bài tập thầy cho về nhà . Khi Hải trở về chỗ ngồi thầy đứng lặng mấy giây, nhìn bao quát lớp, rồi giọng thầy nhỏ nhẹ, chậm rãi : Hôm nay tôi không gọi em Hải lên kiểm tra bài. Nhưng một số em đã lợi dụng vào khiếm khuyết về cơ thể của em Hải để đánh lừa bạn. Đó là việc làm không đúng, không tốt Không có tình thương yêu giúp đỡ nhau ,lại không tôn trọng người khác, đặc biệt lấy khiếm khuyết về cơ thể của người khác để làm trò đùa là việc làm của người không có nhân cách. Cả lớp im lặng không một tiếng động nhỏ. Tất cả bọn con trai chúng tôi cúi mặt, lấm la lấm lét không dám nhìn lên. Bọn con gái thi quay lại nhìn lũ chúng tôi như muốn tìm xem kẻ nào đã chủ mưu gây ra tội tày đình. Một phút trôi qua mà chúng tôi cảm thấy nặng nề. Thời gian như ngừng lại… Rồi tiếng thầy lại vang lên, ấm cúng : Ta tiếp tục nhé. Bài giảng của thầy lại diễn ra bình thường như bao giờ lên lớp khác, như trước đó chưa xảy ra chuyện gì trong lớp học. Giọng của thầy vẫn ấm áp, thân tình. Thầy vẫn hướng dẫn gợi mở , khuyến khích chúng tôi cùng thầy say mê khám phá những chân trời toán học. Nhưng mỗi chúng tôi sau này mỗi giờ thầy lên lớp giờ đây không chỉ là giờ toán học. Trong miền sâu thẳm của trí tuệ, của trái tim những học trò lớp 9A chúng tôi được thầy tác động một “ cú hích ” để chuyển đổi trạng thái, chuyển đổi nhận thức trở thành con người hoàn chỉnh. May mắn của cuộc đời tôi, hạnh phúc của cá nhân tôi là được học thầy Vương Đình Huấn (Thach Quỳ), thầy Hoàng Thanh Tùng, thầy Nguyễn Đình Liểng…và sau này là Giáo sư Đặng Trần Phách, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quang … Được trải qua những bài học làm người như thế chung tôi lớn lên và trưởng thành qua năm tháng. Giờ Hình học về đường thẳng ở lớp 9A của thầy Huấn đã theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi, hướng dẫn tôi phấn đấu sống, làm việc của một con người có nhân cách.

        “ Đường thẳng luôn bài xích những cong queo
         Và gạt bỏ những lối mòn có sẵn.
         Đường thẳng nói về những miền vô tận
         Mà nghe như âm ỷ giữa tim mình ”
         Đường thẳng mời bước chị, bước anh
         Mà chỉ nói, tôi là đường thẳng. ”

     ( Cái đường thẳng nằm trong hình học – Thạch Quỳ )

Chiến tranh đánh phá bằng không quân của giặc Mỹ ngày càng mở rộng.  Ngày 18 tháng 3 năm 1965 trường tôi bị giặc Mỹ ném bom. Tiếng máy bay phản lực gầm rít chói tai. Tiếng bom đạn nổ đinh óc. Bom Mỹ  phá sập nhà cửa, đập tan gạch ngói, cày tung đất đai, hạ gục cây cối. Nhưng bom Mỹ không thể đè bẹp ý chí của một dân tộc, nhất là đó lại dân tộc Việt Nam. Khói bom còn mù mịt, những cô dân quân, những chú công nhân và bao nhiêu người dân, trai, gái trẻ già vừa cấp cứu những người bị bom đạn Mỹ sát hại, vừa khẩn trương tổ chức lại một nhịp sống mới, chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến đấu mới.

Thầy trò trường chúng tôi lại chia tách thành các phân hiệu nhỏ hơn chuyển về nơi sơ tán phù hợp với điều kiện của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ. Một số thanh niên học sinh tiếp tục rời ghế nhà trường lên đường đi chiến đấu. TẤT CẢ CHO TIỀN TUYẾN, TẤT CẢ CHO CHIẾN THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC. Đó là lý tưởng, là lẽ sống  của cả một dân tộc, của thanh niên thế hệ chúng tôi. Cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ tự do, độc lập diễn ra gay go ác liệt và mất mát, hy sinh. Anh Hồ Sỹ Tỵ,  bạn  Hoàng Đình Cầm  đã lên đường đi chiến đấu mà không bao giờ trở lại. Các anh đã hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ Quốc, cho dân tộc và cho cả cá nhân tôi. Tổ quốc muôn đời ghi nhớ công ơn các anh Xin thắp một nén nhang và lời cầu nguyện viết trên trang giấy trắng, cầu mong linh hồn các anh siêu thoát tới cõi vĩnh hằng.

Sáu năm, hết cấp II rồi học cấp III tôi đều phải đi học xa nhà. Cứ thứ bảy, tan học là từ trường huyện tếch thẳng về nhà. Đói hoa cả mắt. Cũng có những tuần trên đường về. ông bác anh trai mẹ tôi đón ngang đường bắt thằng cháu ghé vào ăn vội bát cơm nhà vẫn để giành cho tôi. Về đến đầu làng đã thấy mẹ bế các cháu đứng  chờ ngoài ngõ. Các cháu Tuyết, cháu Sương chạy đến và ôm chầm lấy chú. Mọi sự mỏi mệt, bụng đói đều tan biến. Chỉ còn lại niềm vui . Mẹ lại tất bật lo cho tôi đủ thứ . Nào tiền ăn, nào gạo góp, nào chiếc áo con đứt chỉ đêm về mẹ mới có thời gian chong đèn khâu lại. Rồi lại quẩn quanh kiếm thứ gì cho con ăn thật no, thật ngon để ngày hôm sau con lại đến trường. Sau này lớn lên, đi làm ăn và sinh sống xa quê, có vợ con , cuộc sống vật chất chưa dư thừa nhưng cuộc sống vợ chồng con cái tôi cũng tạm đầy đủ, mà nơi quê nghèo mẹ vẫn tằn tiện tích cóp từng đồng để  mua những gì ngon nhất, quý nhất giành gửi cho cháu, cho con. Tôi thật xấu hổ khi về quê , chẳng có gì đáng giá để làm quà cho cha, cho mẹ nhưng khi ra đi mẹ bắt tôi mang nào túi đầy, nào  túi vơi những lạc, những vừng, những cân gạo nếp và cả những củ khoai lang vàng xứ Nghệ cho các cháu ăn để  biết và nhớ hương vị quê nhà.

Mùa Xuân năm 1989, ăn tết xong  vợ chồng tôi khởi công làm căn nhà mới, tôi nhận điện từ quê báo tin mẹ bị ốm. Đã nhiều lần, hè về thăm quê, thăm mẹ, người nhà kể lại dù bị ốm nhưng mẹ cấm không được báo tin cho vợ chồng tôi biết. Mẹ lo nếu biết mẹ ốm, chúng tôi ở xa, không yên tâm công tác . Bây giờ nhận tin báo mẹ ốm tôi biết sức khoẻ mẹ nguy kịch. Tôi vội vã thu xếp áo quần về quê để công việc xây cất nhà cửa tự vợ tôi lo liệu . Thời bao cấp, phải tằn tiện, tích cóp nhiều năm mới làm nổi căn nhà cấp bốn. Nhiều công việc vợ chồng tôi phải nai lưng ra làm mà không có tiền để thuê mướn. Mà thời điểm bấy giờ có tiền cũng không thể thuê người làm như bây giờ, vì thuê mướn lao động là bị quy kết là bóc lột,  là địa chủ, tư bản.

Mẹ ốm nặng. Mẹ đã 79 tuổi rồi . Cả cuộc đời mẹ dốc sức lo toan cho gia đinh, cho anh em chúng tôi, cho các cháu. Sức mẹ đã vắt kiệt thành dòng sữa ngọt ngào nuôi anh em tôi khôn lớn. Tình thương yêu mẹ giành trao hết cho con, cho cháu. Tuy nằm liệt giường, chỉ ăn vài thìa cháo khi con cháu nài ép nhưng biết vợ chồng tôi đang làm nhà mẹ rất mừng cho  con trai mẹ sẽ có ngôi nhà yên ấm chở che trong những ngày mưa nắng. Nhưng đang ốm mà mẹ vẫn lo lắng, ban khoăn. Nhiều lần mẹ giục tôi trở về để đỡ đần cho vợ . Mẹ vẫy tôi lại gần hơn, ghé sát tai tôi, tiếng mẹ thì thào : “ Mâý  anh em chỉ có mình con phải sống xa quê. Mẹ ốm, con về được là mẹ toại nguyện lắm rồi. Con hãy trở ra ngoài đó để giúp vợ con. Để một mình vợ con lo việc làm nhà sức khoẻ giảm sút, ốm đau thì khổ vợ con, khổ cháu ” .

Giờ mẹ tôi đã đi xa nhưng tôi cảm nhận mẹ vẫn luôn bên tôi suốt cả cuộc đời. Tôi mãi là đứa trẻ thơ bé bỏng, yêu thương của mẹ. Đôi mắt hiền dịu của mẹ như vẫn dõi theo tôi. Lời ru, những điệu dân ca, hát ví dăm của mẹ ngày nào vẫn ngọt ngào vang vọng đưa tôi vào giấc ngủ. Tôi vẫn nằm gọn trong vòng tay ấm áp, vẫn dúi đầu vào lồng ngực tìm hơi ấm nồng nàn từ trái tim của mẹ. Mẹ là tất cả, là tình yêu cao quý nhất. Mẹ là người đẹp nhất trên thế gian này.
                                                *
                                             *     *

Tuổi mười tám, tôi có một mối tình thật đẹp. Chúng tôi sinh ra và lớn lên trong xóm nhỏ nghèo nàn, chung khoảng trời thu trong vắt và bến sông quê tấp nập chiều hè. Cô bé làng quê tóc vàng cùng chăn trâu, đánh chuyền ngày ấy, giờ đã thành cô gái tràn đầy sức sống của tuổi trăng tròn. Mọi sự đều tự nhiên như em tự nhiên đến tuổi dậy thì. Em hay tìm cớ gặp riêng tôi khi tôi đến nhà em cùng chị gái trao đổi những bài toán khó. Em cũng nhanh chân đi, chậm chân về khi chị gái sai sang nhà tôi giúp chị một việc gì đó. Rồi tự nhiên chúng tôi thấy nhớ khi không được gặp nhau. Một ngày không gặp em tôi thấy như trống vắng, cô đơn như thiếu hẳn đi một cái gì không rõ . Một cái gì khó diễn tả, nhưng cứ bứt rứt, bồn chồn. Em và tôi là láng giềng của nhau, ngày ngày vẫn chung một con đường, chiều chiều vẫn chung một bến sông quê. Mỗi tối thứ bảy, những buổi sinh hoạt chi đoàn thanh niên dù không  chủ động nhưng tự nhiên tôi và em vẫn tạo được cơ hội đến bên nhau. Và tôi yêu em tự khi nào không biết . Em không nói từ yêu nhưng giác quan đặc biệt mách bảo tôi, em rất yêu tôi. Đôi mắt, nụ cười, nét duyên quê khi em và tôi đối mặt mách bảo cho tôi tất cả. Hỡi các nhà tâm lý học, hãy lý giải cho tôi vì sao mỗi ngày em lại tìm cớ để đi ngang qua ngõ nhà tôi mà tôi cũng nóng lòng chờ  em đi qua ngõ . Em thường tìm tôi mượn tiểu thuyết để đọc khi tôi biết chị em đang đọc cuốn mà em hỏi mượn. Tôi cũng thường tìm em, trao cho em những rô-man mà tôi yêu thích ( rô-man, tiếng Nga vừa có nghĩa tiểu thuyết, vừa có nghĩa tình yêu ). Không hẹn mà bến sông quê  vẫn là nơi tôi và em vẫn gặp nhau những buổi chiều hôm. Không hẹn mà tôi và em vẫn có cớ để chung bước trên con đường làng những đêm trăng sáng. Nhiều khi đang mải mê bên những bài tập về nhà em bỗng như nàng tiên xuất hiện đứng sau lưng. Mùi hương hoa bưởi từ mái tóc em thật dễ chịu. Anh cảm nhận được hơi thở em gấp gáp nồng nàn từ trái tim đập mạnh và đôi mắt âu yếm đang giành mọi tình cảm cho nhau. Rồi bất chợt như lúc đến, chỉ một câu : thôi anh bận học bài, em về đây, em về đây rồi em vội vã ra về mà anh chưa kip nói một lời để rồi sau đó bỏ cả học bài ngồi nuối tiếc, thầm nhớ. Mái tóc đen mùi thơm hương hoa bưởi, nụ cười và đôi mắt ấy là nguyên nhân đem đến niềm vui, là sức sống tràn đầy, mãnh liệt cho tuổi thanh xuân của tôi. Đôi mắt ấy làm trái tim xao động và không sao thoát khỏi tâm trí tôi suốt cả cuộc đời.

Nhưng tôi là một thằng hèn, một thằng nhát như thỏ đế. Yêu em nhưng không dám ngỏ một lời yêu. Gọi thầm tên em trong mơ nhưng trước mặt em tôi không dám nói. Em vẫn ngày ngày ngóng trông, chờ đợi. Tôi như một kẻ si tình chỉ biết khắc tên và hai tiếng yêu em vào nhật ký. Những vần thơ cho em mãi nằm trong trang vở học trò. Thời gian không đợi chờ ai, chiến  tranh ngày càng khốc liệt. Tôi vào trường Đại học sơ tán một miền rừng núi hoang vắng xa xôi. Em thành cô thanh niên xung phong đi phá núi, mở đường cho những đoàn quân, những đoàn xe, những chuyến hàng ngày đêm ra tiền tuyến. Những lá thư tôi gửi em không vượt qua mưa bom bão đạn để đến với người mình yêu dấu. Mà em cùng đồng đội thì từng ngày, từng giờ vượt bao khó khăn gian khổ, hy sinh cả tuổi thanh xuân đẹp nhất để tiến tới chiến trường. Bước chân ra đi không một lời hẹn ước. Hạnh phúc biết về đâu mà năm đợi, tháng chờ.

Mối tình đẹp nhất ấy cũng là mất mát lớn nhất của đời em, đời tôi. Từng đêm, từng đêm hình bóng em vẫn về bên tôi trong giấc chiêm bao để rồi thêm tiếc nuối khi bừng tỉnh giấc. Hình ảnh em mãi trong tôi như thời thiếu nữ, lứa tuổi mười tám đôi mươi. Vẫn nụ cười tươi, đôn hậu với đôi má lúm đồng tiền. Vẫn đôi mắt bồ câu với mái tóc thề ngang vai nhí nhảnh như ngày anh ra đi vào trường Đại học. Bến sông vẫn còn đó. Đường làng quen thuộc vẫn còn đây. Quê hương thân yêu mà vẫn trống trải bởi thiếu vắng hình em mỗi kỳ nghỉ hè anh ghé về thăm. Thời gian cứ trôi đi không chờ đợi để rồi 26 năm xa cách vời vợi, trong một chuyến đi công tác gặp lại em tận ngoại ô của thành phố miền trung. Tôi đọc trong đôi mắt em chứa đựng lời trách móc và nỗi buồn xa xăm, sâu thẳm. Gặp nhau, tay trong tay nồng ấm. Trước mắt mọi người anh nắm tay em như bàn tay giữa hai người bạn thân thiết cùng quê. Chỉ có em và tôi hiểu sự rung động của hai trái tim tổn thương mà ai cũng cố tình dấu kín. Rồi lại phải chia tay và tôi tiếp tục lên đường. Tôi mừng cho em đã có một gia đình hạnh phúc. Chia tay rồi vẫn để lại trong em, trong tôi hai chữ  Giá như  :

 “ Giá như nói được nên lời
   Thì đâu mấy chục năm trời xa nhau
    Bây giờ gặp lại lòng đau
    Mối tình xanh với mái đầu hoa râm. ”
Cũng phải tự thú nhận rằng : Nam nữ, trai gái yêu nhau rồi kết thành vợ chồng cũng là duyên số. Có cặp sau cú sét tình yêu là họ cưới nhau thành vợ thành chồng. Có đôi yêu nhau tưởng như không thể chia xa mà ông tơ bà nguyệt chẳng xe duyên chỉ để lại thành một mối tình đầu ngây thơ, trong trắng. Cặp đôi yêu là cưới thật viên mãn, tuy suôn sẻ một chiều nhưng bản thân họ không bao giờ có cảm giác nuối tiếc một tình yêu đã mất. Mối tình sau mối tình đầu có thể có cuộc sống hạnh phúc hơn nhiều so với mối tình đầu giả sử không tan vỡ; nhưng có sự không thành trong hôn nhân là có sự nuối tiếc thầm lặng, đậm đà thi vị suốt đời của tình yêu. Cặp đôi có mối tình đầu cũng là mối tình duy nhất không thể hiểu tình cảm của những người có mối tình đầu dang dở. Mối tình đầu thường đựợc dấu kín sau hôn nhân dù người đó là nam giới hay phụ nữ và chắc rằng cặp đôi có mối tình đầu dang dở là phổ biến trong cuộc sống, trong hôn nhân. Mối tình đầu âm ỉ trong tim suốt cả cuộc đời nhưng không vì thế mà ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, vợ chồng, con cái.

                                        *
                                      *     *

Năm học cuối cùng của bậc học phổ thông là năm học đáng ghi nhớ nhất. Thanh niên chúng tôi  học tập trong khí thế sục sôi của toàn dân tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước. Từ tiền tuyến đến hậu phương, đâu đâu cũng thể hiện quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Được ra chiến trường cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là nguyện vọng, ước mơ, lẽ sống và là nghĩa vụ thiêng liêng của tuổi trẻ. Việc ở lại hậu phương tiếp tục học tập với chúng tôi là nhiệm vụ bắt buộc, là thể hiện ý thức chấp hành kỷ luật mà thôi. Nhưng khi đã chấp hành sự phân công, trách nhiệm của chúng tôi là phấn đấu học tập tốt. Chúng tôi xác định rõ ràng động cơ, mục đích học tập. Học để làm người, có kiến thức để ngày mai góp phần xây dựng lại đất nước nên mọi người đều say sưa, miệt mài học tập. Thời đó, trường lớp thật đơn sơ, lớp học dựng lên bằng tre, nứa. Chung quanh là bờ đất đắp dày để chống bom đạn. Mỗi lớp học phải cách xa nhau hàng trăm mét và từ trong lớp có giao thông hào toả ra bốn phía để thoát ra khi bị ném bom. Tài liệu học tập thiếu thốn nhưng phương pháp học tập thật đa dạng, phong phú. Một bài tập, chúng tôi phải đua nhau tìm ra nhiều cách giải, bàn luận, trao đổi cách giải nào là hay nhất. Tập thơ Nhật ký trong tù của Bác Hồ, thơ Tố Hữu chúng tôi đều học thuộc cùng nhiều bài thơ Đường trong các tác phẩm văn học. Trên đường đến trường, hay những cuộc tụ tập , sinh hoạt , một người khởi xướng đọc trước một câu thơ thì người khác phải đọc được câu tiếp theo của bài thơ nếu không mình trở thành người kém hơn bạn. Để có tư liệu học tập khi đi dự buổi ngoại khoá về Ca dao kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tài liệu không có;  mỗi cá nhân không thể ghi chép đầy đủ; chúng tôi phân công nhau mỗi người chép một câu . Về nhà lại chụm đầu ghép lại, thậm chí sáng tác bổ sung ( vì có lúc ghi không kịp ) để có bài ca dao hoàn chỉnh. Hôm nay, lớp trẻ cần thông tin chỉ gõ vào trang tìm kiếm Google trên máy tính nối mạng là có tất cả câu trả lời. Lớp trẻ đã tận dụng bộ nhớ của máy móc còn chúng tôi lại luôn tranh thủ thời gian nạp kiến thức vào bộ nhớ của mình.Nấu cơm giúp mẹ và đọc. Chân giã gạo thì tay vẫn cầm sách để đọc, để học. Ngồi chờ đến lượt mình ở tiệm hớt tóc: đọc Học trên đường từ trường về nhà và ngược lại. Những từ mới tiếng Nga hay một bài thơ chủ yếu thuộc lời, hiểu nghĩa trên đường đi, còn  chữ viết chính xác được củng cố thêm sau. Thế hệ chúng tôi thiếu thốn nhiều thông tin nên chúng tôi phải học, phải nạp đầy bộ nhớ. Thời này thì người ta bảo là hâm, nhưng nhờ cái hâm đó mà tri thức cuộc sống cái gì chúng tôi cũng biết dù chẳng được chuyên sâu. Không có chuyện nhắc bài, quay cóp, gian lận trong học tập. Không có chuyện chạy điểm, chạy thi lại, chạy lên lớp, chạy danh hiệu học sinh giỏi, học sinh tiên tiến như sau này. Thế hệ thanh niên học sinh chúng tôi là thế. Tôi tự hào được sinh ra, lớn lên, rèn luyện trong thời đại thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Sống, học tập, rèn luyện trong môi trường trong sạch, lành mạnh. Phải chăng gia đình, cha mẹ tôi tuy nghèo  nhưng biết sống thanh bạch, biết chia sẻ, yêu thương. Phải chăng nhà trường tôi học có các thầy giáo mẫu mực, hết lòng  dạy chúng tôi làm người có nhân cách,  biết làm chủ bản thân. Xã hội tôi sống là xã hội của con người  với con người đã tạo cho tôi chính là tôi hôm nay.

                                        *
                                     *        *

Sau khi tốt nghiệp cấp III chúng tôi chờ gọi vào Đại học. Trong chiến tranh, nhu cầu đào tạo nhân lực phục vụ trước mắt cũng như lâu dài rất lớn. Nhưng số lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông bấy giờ còn ít ỏi. Thấy Lê Văn Đệ, hiệu trưởng trường tôi tham gia vào Ban tuyển sinh của tinh thông báo tôi được chọn đi đào tạo tại Tiệp Khắc. Tháng 7, tháng 8 các bạn học Đại học trong nước đã lục tục nhập trường. Học cùng khoá chỉ vài người còn lại. Tháng 9, tháng 10 qua đi trong khắc khoải đợi chờ. Rồi cái gì đến cũng sẽ đến. Cuối tháng 11-1966 nhận được giấy báo nhập học của trường  Văn hoá 12-9 Thanh Hoá. Lúc đầu không hiểu đó là trường nào, nhưng đọc các thông tin, tôi hiểu trường Văn hoá 12-9 là trường Đại học sư phạm Vinh. Do chiến tranh, đảm bảo bí mật tên trường Vinh được thay vào ngày 12-9, là ngày Xô viết Nghệ Tĩnh. Và trường đã sơ tán ra miền núi tỉnh Thanh Hoá để đảm bảo an toàn cho thầy trò trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ..

Tuổi thanh niên nhiều ước mơ, hoài bão. Ước mơ bay cao, bay xa đã được củng cố bằng thông tin đi học nước ngoài đã làm tôi hết sức phấn khởi. Đùng một tiếng, giấy báo của trường Văn hoá 12-9 Thanh hoá đã làm tôi choáng váng, chán chường. Không đọc hết nôi dung hướng dẫn nhập học tôi quyết định không nhập trường để theo học. Biết vậy, cha mẹ tôi buồn lắm. Đối với cha mẹ, được đi học Đại học là niềm tự hào,  hạnh phúc lắm rồi. ước mơ ngàn đời của bao thế hệ cha ông bây giờ mới thành hiện thực. Cha tôi thuyết phục nhiều lần để tôi đến trường nhưng tôi vẫn không chịu nghe lời. Một không khí nặng nề bao trùm gia đình. Cha tôi trở nên lầm lỳ ít nói, kém ăn và gầy rạc người đi. Mẹ tôi băn khoăn lo lắng, đứng ngồi không yên nhưng cũng  không biết làm gì. Tôi chán chường, sống như người lập dị. Ngày mùa đông dài lê thê, ảm đạm . Và những dòng tự sự tâm trạng bất ổn định của mình  : Ta sẽ làm luồng gió. Khi buồn thổi rung cây. Lúc tức giận tràn đầy. Vặt hàng cây sạch lá.
                                       
Rồi một ngày cuối tháng Phạm Thị Mai, bạn cùng lớp tìm đến nhà tôi. Mai cũng có giấy gọi vào trường Văn hoá 12-9 Thanh Hoá. Nhân cơ hội đó, cha mẹ tôi tiếp tục thuyết phục tôi cùng Mai nhập học. Tôi phân vân chưa nhận lời cha mẹ. Nhưng một buổi trưa nắng vàng yếu ớt không xua nổi thời tiết se lạnh của mùa đông . Cha nằm nghỉ trên chiếc phản gỗ giữa nhà. Ông nằm nghiêng, hai tay ôm lấy đầu thay gối, hai chân như cố thu lại cho đỡ lạnh. Đứng nhìn cha ngủ tự nhiên một tình thương yêu trong tôI trỗi dậy. Hình như do giành tất cả sức lực lo toan cho cuộc sống gia đình, lo cho hai con trai đang chiến đấu gian khổ, ác liệt ở chiến trường xa, lo cho con trai đang công tác trên vùng cao biên giơí đầy khó khăn, nguy hiểm đã đè nặng lên tấm thân gầy đã bước sang tuổi 60 của cha tôi. Hình như tất cả nỗi lo toan ấy toát lên trong dáng nằm co quắp khổ cực kia.  Còn tôi được tạo điều kiện ăn học hơn các anh tôi. Bây giờ chỉ không thích nghề dạy học mà làm cha mẹ phiền lòng. Tôi lặng lẽ đến kề bên. Lòng tôi se thắt lại và cảm thấy thương cha vô hạn. Một quyết định dứt khoát nảy ra trong tôi. Phải đi học, không thể vì mình mà để mẹ, để cha phải phiền lòng. Đi học để làm thầy giáo cũng tốt chứ sao. Tấm gương của cậu Hồng, thầy Vương Đình  Huấn, thầy Hoàng Thanh Tùng…và anh trai tôi nữa vẫn còn đấy. Các thầy, anh tôi chẳng đều làm nghề dạy học đó cả sao?  Chờ cha tôi dậy, tôi rón rén lại gần và nói : Thưa cha, con xin lỗi cha về chuyện học hành để làm cha, mẹ phiền lòng. Con xin nghe lời cha mẹ sẽ chuẩn bị các thủ tục để đến nhập trường. Cha nhìn tôi chăm chú, đôi mắt cha từ ngạc nhiên chuyển dần thành âu yếm, mãn nguyện. Cha phấn chấn hẳn lên và tiếp tục lo chuẩn bị các thứ cho tôi mang theo nhập học.

Ngày ra đi, gặp bạn Nguyễn Văn Tường chân bước thấp, bước cao, mang khăn gói, gạo nước đi dân công đắp đập nước Lại Lò. Tường là người đẹp trai lại học giỏi nhất nhì lớp. Tường có giấy báo nhập học trường Đại học Bưu điện truyền thanh Hà Nội . Nhưng trớ trêu thay, cha mẹ Tường là nông dân làm ăn cá thể, không chịu gia nhập Hợp tác xã nông nghiệp. Thời bấy giờ nông dân không vào HTX là người ta quy kết nào là  chống đối, nào là cá nhân, nào là tư hữu. Mặc dù thực chất về kinh tế gia đình nhà Tường khá giả hơn các gia đình xã viên HTX nông nghiệp chúng tôi. Và đời cha không thực hiện chủ trương chung của Nhà nước, đời con phải trả giá. Ủy ban nhân dân xã đã giữ giấy báo nhập học của Tường lại, không cho Tường đi học. Gặp nhau chúng tôi nhìn nhau ngậm ngùi không nói được gì nhiều. Khoé mắt đứa nào cũng ướt lệ. Chúng tôi khóc một phần vì sự quyến luyến khi phải xa nhau trong cảnh trớ trêu của hai người bạn . Nhưng chúng tôi khóc cũng vì sự đắng cay do đối xử hèn hạ, dốt nát, bất công của những kẻ cầm quyền.

Đúng hẹn, tôi và Mai cùng Hoàng Đình Minh vai mang ba lô, tay xách túi lên đường. Minh đi cùng chúng tôi nhưng nhập học trường Đại học Mỏ- Địa chất tận ngoài Hà Bắc.

Từ quê tôi về huyện Thạch Thành chưa đầy hai trăm cây số mà chúng tôi phải đi mất một tuần lễ. Trên đường đi sống chết là việc bình thường. Thanh niên học sinh chúng tôi từ các tỉnh khu Bốn, từ Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An ra các tỉnh phía Bắc học tập đã có những người chưa kịp đến cổng trường Đại học. Họ không may bị bom Mỹ sát hại dọc đường. Sau một ngày cuốc bộ, và nhiều lần chạy tránh khi có máy bay địch, chúng tôi may mắn được đi nhờ đoàn xe quân sự từ phía Nam ra Bắc để nhận hàng. Và phải chờ khi mặt trời xuống núi đoàn xe mới nổ máy lên đường. Từ trên thùng xe nhìn xuống hai bên đường, những hố bom dày chi chít chồng lên nhau. Mặt đất bị cày xéo nham nhở. Từng đoàn thanh niên xung phong hối hả san lấp hố bom, kè lại cầu, san gạt lại mặt đường cho xe ra Bắc,  vào Nam phục vụ chiến trường.. Gần sáng mới tới Thị xã Thanh Hoá. Thế là chúng tôi đã vượt qua những cửa tử như  cầu Bùng, cầu Cấm, Hoàng Mai, khe Nước Lạnh, … trên đường số I đoạn Nghệ An – Thanh Hoá. Chia tay nhau, Minh một mình lần đường ra Hà Bắc. Tôi và Mai tìm đường về huyện Thạch Thành. Những ngày chờ tìm phương tiện đi lại chúng tôi đã làm quen nhiều người bạn trên đường. Người đi học, người đi công tác, người chuyển địa điểm làm việc… Dù là vào Nam hay ra Bắc, lên miền Tây hay xuống đồng bằng, là bộ đội hay công nhân, là học sinh hay cán bộ họ đều thể hiện một tình người sâu đậm. Chiến tranh đã làm con người xích sát lại gần nhau hơn. Hai người chỉ cần đi chung trên một đoạn đường là gắn bó như anh em ruột thịt, có cơm nắm cùng ăn, có mang xách nặng là sẵn sàng chia sẻ đỡ đần cho nhau. Chia tay nhau hẹn hò bịn rịn, rồi mấy năm sau tình cờ gặp lại, vẫn tay bắt mặt mừng, chuyện trò rối rít như cha con, như anh em xa nhau lâu ngày gặp lại. Xa quê hương chúng tôi đã gặp và sống trong tình  yêu thương đùm bọc của những con người Việt Nam như thế trên khắp mọi nẻo đường của quê hương, đất nước.

Đến Kim Tân, thủ phủ của huyện Thạch Thành, qua bến đò Thạch, tôi bỗng nhớ vế đối của quan huyện Thạch “ Ông huyện Thạch  qua bến đò Thạch ”. Không rành lắm về văn chương nên tôi không biết đã có những ai đối lại vế đối của quan huyện Thạch. Tôi chỉ nhớ chuyện kể rằng có một thư sinh đối lai câu : “ Con chó vàng cắn cục cứt vàng ”. để chửi lại ông quan hơm hĩnh ấy. Đây là địa danh đầu tiên liên quan đến sách vở, mà tôi được đặt chân đến.

Gặp một số bạn miền Trung đã nhập học từ thời gian trước tại Kim Tân, họ đã là “ ma” cũ. Các bạn hướng dẫn chúng tôi địa điểm các khoa đến sơ tán . Khoa Văn cách chừng 20 Km,  khoa Toán, Lý đi bộ mất khoảng hai tiếng đồng hồ. Chỉ hai khoa Hoá và Sinh là gần Kim Tân nhất. Thach Thành là huyện miền núi của tỉnh Thanh Hoá. Nơi trường sơ tán chủ yếu đồng bào dân tộc Mường sinh sống. Anh bạn người Quảng Bình kể lại rằng trên gác bếp đặt giữa sàn nhà anh thấy có nhiều xâu “ dái ” được sấy khô. Nghe tới đây tôi lạnh người, nổi da gà, dựng tóc gáy, trong lòng hết sức lo sợ. Họ ăn thịt người chăng ?! ( Sau này tìm hiểu tôi biết  đồng bào ở đây bắt những con nhái, mổ sạch, để lên gác bếp sấy khô làm thức ăn. Tiếng Quảng Bình phát âm không rõ nên từ “ nhái ” thành từ “ dái ”)?! . Từ nhỏ đến giờ ngoài đi học xa  nhất là trường huyện, tôi chưa bao giờ đi tới vùng xa lạ, cũng chưa bao giờ tiếp xúc với người dân tộc khác. Tôi băn khoăn nghĩ cách làm thế nào để được học gần Kim Tân. Có biến cố gì còn biết đường chuồn.  Đến K1 là khoa lãnh đạo trường, tôi xin được theo học khoa Hoá mặc dù nhà trường  dự kiến cho tôi học khoa Văn hay là khoa Vật lý. Về khoa Hoá, tôi và Mai vẫn  học cùng một lớp.

Chúng tôi, tất cả những học sinh được dự kiến cho đi đào tạo ở Liên Xô, các nước châu Âu về đây tròn một lớp, lớp IC. Các lớp IA và IB đã vào học từ tháng 9. Thời gian đầu, tất cả đều đinh ninh chỉ tập trung  học  thêm văn hoá để sau này tiếp tục ra nước ngoài. Nhưng bấy giờ cuộc Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc đã cấm vận không cho người nước ngoài đi qua đất Trung Quốc. Học sinh Việt Nam đang học ở Trung Quốc những năm trước cũng bị đưa về nước. Từ hy vọng mong manh, trở thành thất vọng. Thất vọng thành bất mãn. Theo đánh giá của các thầy giáo, lớp IC là lớp học tập giỏi nhất khoa, nhưng là lớp ngang bướng nhất. Khi các thầy giáo tập trung làm công tác tư tưởng, nói về vai trò, vị trí của nghề dạy học trong xã hội thì họ nói chuyện, làm mất trật tự, thâm chí còn nói ngang, la ó. Thực tế sinh viên lớp IC sức học đồng đều, nhiều sinh viên học giỏi nhưng lời nói, việc làm ngang bướng nên sau năm học thứ nhất nhà trường đã giải tán lớp này, chia sinh viên lớp IC vào học các lớp A và B.

Hai tiếng sinh viên là niềm mơ ước của nhiều thế hệ học sinh phổ thông. Hai tiếng sinh viên là niềm kiêu hãnh của nhiều thanh niên và gia đình có con đang học đại học. Chúng tôi  mang trên mình hai tiếng sinh viên với trăn trở, suy tư, phải dày vò những ngày đầu bước chân vào trường Đại học Sư phạm. Thời gian trôi nhanh. Việc học hành, tiếp cận những kiến thức mới, giải quyết những khó khăn hàng ngày đã đưa chúng tôi hoà nhập vào cuộc sống. Lớp sinh viên chúng tôi trước khi vào học hai tay chai sạn vì đào hầm, đào hào đề phòng máy bay địch oanh tạc. Sinh viên phải lên rừng chặt luồng, lấy nứa đem về làm nên giảng đường, phòng thí nghiệm. Sinh viên là xài mì luộc, ngô răng ngựa cùng món canh bí đỏ “ toàn quốc ” quanh năm. Khó khăn gian khổ lắm. Thế mà chúng tôi đã vượt qua. Tuổi 20, tuổi bẻ gãy sừng trâu, lứa tuổi học tập, làm việc không biết mệt mỏi. Đời sinh viên chúng tôi đã sống và vượt qua những ngày gian khổ khó khăn như thế.

Cũng không thể không nói đến việc học hành. Khoá học của chúng tôi có nhiều người học giỏi, sau này thành đạt trong chuyên môn nhưng cũng không ít người học kém. Suốt những năm học đại học tôi một lần phải thi lại .Mà oái oăm thay môn phải thi lại là môn tôi được làm cán sự. Môn học tiếng Nga. Rồi cũng chỉ mang tiếng là phải thi lại tiếng Nga, chứ đến ngày mang giấy bút làm bài, thầy giáo tiếng  Nga cho tôi vác bút quay về, không phải làm bài thi, vì trình độ học tiếng Nga của tôi thực chất thế nào, thầy biết.  Kết thúc chương trình sau mấy năm học, ai cũng lo cho mình vượt qua kỳ thi tốt nghiệp. Đời sinh viên gian khổ, ai cũng muốn vượt vũ môn để ra trường. Nhiều người chạy đôn chạy đáo từ nhóm ôn thi này đến nhóm ôn thi khác. Tôi thì cứ bình chân như vại. Học để thành sinh viên giỏi thì khó thật. Nhưng học để thi đỗ tốt nghiệp phải là chuyện đương nhiên của người đi học. Kết quả môn thi vấn đáp đầu tiên đã khăng định và tạo niềm tin cho tôi trong kỳ thi. Lương Thị Ngọc Ái, quê Quảng Bình sau khi trả lời thi vấn đáp, ra khỏi phòng thi đã hỏi tôi để kiểm tra lại phương án đã trình bày. Tôi và Ái cùng nhau rà soát lại đáp án. Ái yên tâm. Đúng 45 phút sau, được gọi vào phòng thi, tôi bắt đúng đề thi mà Ái vừa nhờ tư vấn. Tôi bình tĩnh chuẩn bị đề cương và trình bày lưu loát nội dung bài. Hai thầy giáo giám khảo không hỏi thêm điều gì. Tuy chưa được công bố nhưng chắc chắn điểm 5 là kết quả của môn thi đầu tiên mà tôi đã gặt hái . Còn hai môn thi viết về sau  chỉ được thêm hai điểm 4.( Thời bấy giờ điểm 5 là diểm cao nhất theo thang điểm 5/5)

Sau một tháng luyện tập quân sự chúng tôi ra trường nhưng chưa có quyết định phân công công tác vì chưa nhận được ý kiến phê duyệt của Bộ Giáo dục. Nhà trường hẹn quay lại lấy quyết định vào tháng 9. Chúng tôi chia tay nhau vội vã. Mấy dòng địa chỉ  quê hương thực tế về sau chẳng có giá trị gì. Địa chỉ nơi đến công tác thì chưa có. Sinh viên tỉnh xa như Hà Tĩnh, Quảng Bình ở lại chờ nhận quyết định và đi công tác luôn vì thời gian này đế quốc Mỹ quay lại ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 19 trở vào. Sinh viên các tỉnh như Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An đều tranh thủ về thăm quê rồi mới quay lại trường nhận quyết định đi các tỉnh. Họ không phân vân được Bộ phân công về đâu, không một ai đến gặp phòng Tổ chức để xin được về quê bởi họ là lớp thanh niên thực hiện phong trào Ba sẵn sàng mà Trung ương đoàn thanh niên phát động. Họ sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào , làm bất cứ  việc gì khi Tổ quốc cần . Chúng tôi 54 thầy cô giáo tương lai thân yêu học chung một lớp, mỗi người sẽ về một miền của quê hương đất nước. Nhiều căp sinh viên nam nữ sau vài năm ra trường đã thành vợ, thành chồng. Nhiều bạn bè chia tay nhau, xa nhau mãi mãi không bao giờ gặp lại. Nhưng những ký ức, những cảm thông, sẻ chia về những năm tháng gian khổ, khó khăn,  những tình cảm đẹp nhất của tuổi trẻ thời sinh viên không bao giờ nhạt phai trong tâm trí mỗi chúng tôi.

Tôi đến chào tạm biệt gia đình các thầy giáo, cô giáo, chào bà con các gia đình đã giúp đỡ quen thân trong những tháng năm qua rồi nhờ một sinh viên lớp dưới cùng quê dùng xe đạp đưa về ga Thanh Hoá . Thế là xa mái trường Đại học, xa bà con xã Định Thành, Vọng Thuỷ, Ngọc Nước, Thụ Chính thân yêu. Xa dòng sông Bưởi hiền hoà những chiều hè tắm mát, những chiều thu ngồi hóng gió bên sông mà tưởng như đang ở bên con sông Giăng mãi tận quê nhà. Mai đây dù công tác ở đâu trên mọi miền của đất nước chúng tôi vẫn mãi mãi ghi nhớ tên một làng quê đã một thời gắn bó. Tên các ông bà, anh chị, các em đã trở thành một phần máu thịt của chúng tôi.


                       




                    Lập Nghiệp

Ngày 10 tháng 01 năm 2007, tròn sáu mươi tuổi tôi nhận quyết định nghỉ việc theo quy định của Nhà nước. Bàn giao nhanh gọn cho người kế nhiệm, từ tầng năm công sở, đi qua các tầng tôi lần lượt chào bạn bè như sau giờ nghỉ của những ngày làm việc khác. Dù biết tôi thuộc nhóm những người cao tuổi của cơ quan sẽ được ( hay phải ) nghỉ việc, nhiều đồng nghiệp vẫn ngạc nhiên, chưa tin khi tôi nói lời chia tay họ. Ra về, tâm hồn tôi thanh thản không chút băn khoăn.  Về tư tưởng tôi đã chủ động chuẩn bị cho mình ngày rời công việc, rời công sở đã mấy năm rồi. Cơ sở quan trọng tạo nên sự thanh thản là không đam mê vào quyền lực và đồng tiền. Một căn bệnh mà con  người, ít nhiều ai đã  dính vào khó đường không nuối tiếc. Phải nói thêm rằng , tôi không phải là thần thánh gì, vẫn chỉ là con người bằng xương, bằng thịt bình thường như bao con người khác mà không thích rượu ngon, người đẹp không thích cuộc sống thanh nhàn… . Nhưng tôi hiểu rằng tôi không bao giờ có quyền lực và đồng tiền bởi lẽ tôi là con người của dễ xúc động trước mọi biến động ảnh hưởng không thuận lợi đến con người. Nói cách khác tôi không phải là người có lý trí bằng thép, không có cái đầu lạnh. Muốn giành một chút quyền lực thì phải dẫm đạp lên nhau, phải có cái đầu lạnh mà khổ thay hình như đầu tôi lại chứa nhầm chỗ, bên cạnh bộ óc là một trái tim. Môi trường sống của tôi cũng đơn độc, thân cô thế cô. Một anh từ miền trung nhảy ra tận một miền Tây bắc, không họ hàng, bạn bè thân thích, khi có thiếu sót không bị đánh đã là may mắn, còn dưới ánh nắng mùa hè , bóng râm đâu phải là chỗ mình ngồi. Bóng râm trước hết phải là người nhà, dòng họ, bạn bè thở thiếu thời rồi mới đến chỗ người dưng. Bạn bè tôi quen biết đều một hạng như nhau cả . Tôi an phận sống như một con tốt trên bàn cờ, khi cần đến người ta chỉ dí ngón tay mà đẩy đi. Hiểu được như vậy nên quyền lực và đồng tiền tôi trở nên an phận và trở thành nếp sống của mình. Giời đây, bước ra khỏi công sở, hôm nay không còn là người làm công, ăn lương của Nhà nước. Là môt “ phó thường dân ”,  là một cá thể tự do chỉ cần sống đúng đạo lý và pháp luật. Thanh thản vì mọi công việc được giao tôi đã hoàn thành, không có công việc nào để lại cho người kế nhiệm phải “ khó xử lý”. Mọi quan hệ đều tốt đẹp không chút vướng bận nào, dù đó là quan hệ trong công tác hay quan hệ cá nhân. Nhưng cũng không tránh khỏi xúc động, xao xuyến khi nói lời chia tay. Một vài đồng nghiệp là phụ nữ dễ xúc động, nghẹn ngào với đôi mắt ứa lệ. Từ nay chúng tôi ít có cơ hội được gặp gỡ, trao đổi, chuyện trò và những giờ giải lao tếu táo bên nhau.

Thế là đã 38 năm trôi qua kể từ ngày bước chân vào ngành giáo dục. Thời gian công tác trong nghề không ít. Nhưng ngoảnh nhìn lại, thấy mình chưa có gì dù nhỏ nhoi để đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Những gì đã làm, những gì đã trải qua là con đường tự nhiên như bao người khác. Ba mươi tám năm,  như một luồng gió thoáng qua. Một giọt nước giữa biển cả mênh mông. Một hạt cát giữa bạt ngàn sa mạc. Dù vậy tôi không hề cảm thấy hổ thẹn với những việc làm trên con đường dài thăm thẳm đã qua. Trên con đường ấy dù có lúc bằng phẳng, có lúc gập gềnh sóng gió, thậm chí mưa dập, bão dồn nhưng không làm tôi mỏi gối chồn chân. Bởi điều đơn giản từ nhỏ tôi đã được sống đầy tình yêu thương của đại gia đình, trong mối quan hệ bạn bè chân thật, môi trường xã hội trong sáng, lành mạnh. Phương châm sống của tôi là : Làm việc được động viên khen ngợi là điều tốt. Không được tuyên dương, khen thưởng, không được lên mặt báo, không được nêu tên trên loa phóng thanh cũng chẳng sao. Nhưng không thể để trong ý nghĩ người quản lý và bạn bè , đồng nghiệp coi tôi là người kém cỏi, dốt nát, không làm được việc. Đơn giản vậy thôi. Thế nhưng để thực hiện được điều đơn giản ấy không hề đơn giản. Phải học. Phải làm. Căng tròn mắt, dỏng tai và căng cái đầu ra để tiếp nhận những gì xảy ra chung quanh để học. Rồi nai lưng ra để làm. Nai lưng ra để hoàn thiện chính bản thân mình. Thế đấy. Mồ hôi và nước mắt. Đau đớn vật vã để có  hạnh phúc đích thực . Với tôi không phải tất cả đều tốt đẹp. Xã hội vốn là sự tổng hợp các thành tố phức tạp. Tôi là một hạt cát của cái thành tố đó. Và không là hạt cát tròn trĩnh mà đầy gai góc. Gai góc tự bản thân và từ cách nhìn theo các lăng kính khác nhau của các thành phần xã hội. Gai góc bởi sự pha trộn giữa cái cũ với cái mới. Cái tiên tiến với cái lạc hậu, giữa cái tôi và cái chúng ta giữa mê cung hỗn độn những con và con người. Tôi lấy tình thương yêu con người làm tư tưởng chủ đạo trong lẽ sống của mình. Tư tưởng ấy xuyên suốt trong quãng đời làm giáo dục, trong cuộc sống thường nhật của bản thân. Mà tình thương yêu giữa con người với con người càng ban phát càng giàu có. Vì thế cuộc đời tôi thu được nhiều hơn là mất mát.

Khi còn là giáo viên mọi việc đều bình thường. Nhưng khi được có chút quyền và điều hành đồng tiền thì tôi bị “ cấp trên” chê cứng rắn, thiếu thức thời, chỉ biết cày vào công việc, trung thực, thẳng thắn nhưng  thiếu sự mềm dẻo, uốn éo, luồn lọt cho phù hợp với thời cuộc. Người ta vẫn nói, cây mềm yếu vẫn tồn tại, phát triển,  cây cứng mọc thẳng thì bị gió bão bẻ gãy đó sao ? Tôi nhận thức được những điều chê bai ấy. Tôi hiểu đó cũng là lời “nhắc nhở” khéo léo, tế nhị để  tự chọn cho mình một con đường tiến thân. Nhưng khổ thay tôi không sao thực hành nổi theo những “ lời dạy bảo thức thời ấy” được. Cái thằng lương tâm trong tôi sao mà “ bảo thủ ”, “cứng đầu” thế. Nó không làm cho cái lưỡi tôi nói những điều cái đầu cho rằng nếu nói ra thì thật xấu hổ, đớn hèn. Đầu gối không biết quỳ và sống lưng thì chẳng biết cong. Đôi bàn tay không biết “ cầm nhầm” những thứ  dù là vật chất hay tinh thần mà không phải của mình. Nhưng lương tâm ơi, đến tận bây giờ dù thời cuộc đã nhiều thay đổi nhưng  tao vẫn không hận mày đâu. Mà trái lại, tao cảm ơn mày nhiều lắm. Nhờ mày mà trong đôi  mắt, trong cách nhìn của con người, tao vẫn là người. Bởi tao biết nhiều kẻ có hình dáng con người nhưng lương tâm hắn đâu phải là người. Thế đấy. Bao buồn vui đã qua mà hôm nay, bước chân ra khỏi công sở, tôi vẫn cảm nhận mọi việc như mới bắt đầu từ  ngày ấy.

Ngày ấy là ngày 3 tháng 9 năm 1969. Cùng Lê Thanh Lưu, trở lại trường Vinh  để nhận phân công đi dạy học. Hai anh em đi bộ về tận Diễn Châu, rồi nhảy tàu từ ga Si để xuống ga Hoàng Mai. Bấy giờ lãnh đạo  khoa Hoá và trường Vinh đã chuyển về đất Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tìm đến nơi trường đóng đã về khuya, hai chúng tôi cùng một số bạn khác vừa gặp nhau ngoài sân ga, rải ni long, đánh một giấc ngủ ngon dưới rặng phi lao đầy gió biển.  Lưu được về Thanh Hoá. Tôi nhận quyết định phân công về Vĩnh Phú . Những kiến thức Địa lý, Lịch sử, Văn học cho tôi biết Vĩnh Phú là tỉnh được sát nhập từ  hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Đến Vĩnh Phú có thể đi đường tàu tuyến Hà Nội- Lao Cai. Còn địa hình, con người, sự nghiệp giáo dục thế nào, tôi chưa hề có chút hiểu biết nào. Lại quay ra ga Hoàng Mai chờ chuyến tàu  đi Hà Nội. Đến ga Thanh Hoá chỉ có 15 phút dừng tàu và chia tay Lưu trong đêm mưa gió của đầu đông cuối thu âm thầm, lặng lẽ. Rồi đoàn tàu lại tiếp tục rúc còi xuyên qua màn đêm lầm lũi tiến về phía trước

Tàu Vinh – Hà Nội  vào ga Hàng Cỏ  lúc trời gần sáng. Ga Hàng Cỏ quá sầm uất trong đôi mắt tôi, một thanh niên nông thôn lần đầu tiên được đến Thủ đô. Nguời, xe cộ lớn nhỏ nhiều chủng loại đi lại đông đúc mà tôi chưa từng thấy. Những toà nhà cao tầng, to lớn cận kề trước mắt mà trước đây tôi chỉ nghe kể đến hoặc xem trong tranh, ảnh . Nhưng sự bỡ ngỡ, choáng ngợp ban đầu cũng chóng qua vì dù là ai, ở đâu lúc này cũng đang hướng về một sự kiện trọng đại. Đó là  Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác Hồ kính yêu của dân tộc mới qua đời. Nhân dân cả nước, nhân dân thủ đô đang hướng về quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi có phủ Chủ tịch nước, nơi Bác Hồ đã sống và làm việc ở đó. Không khí đau thương tràn ngập. Cờ tang rũ trong mưa. Từng đoàn người lầm lũi đi về mọi ngả đường trong trật tự, nghiêm trang. Xe cộ chạy từng đoàn nhưng không một tiếng còi. Trong sâu thẳm của trái tim, ai cũng nghĩ rằng một giọng nói hơi to, một bước chân thiếu nhẹ nhàng lúc này sẽ làm mất giấc ngủ của Người. Tôi quan sát và lặng lẽ tìm hiểu khách đi tàu tuyến Hà Nội – Lào Cai. Rồi lặng lẽ bám theo khách tìm đến cửa bán vé sơ tán tận bên Văn Miếu, mua vé và lên đúng chuyến. Lên tàu, đang vác balô, đồ đạc để tìm một chỗ ngồi vừa ý thì may mắn gặp anh Nguyễn Trọng Bằng, bạn cùng khoá, cùng quê, cũng được phân công về Vĩnh Phú dạy học. Nhờ Bằng có người nhà làm việc ở Bộ Giáo dục nên chúng tôi biết địa điểm sơ tán của Ty Giáo dục Vĩnh Phú đóng tại xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh. Đoàn tàu rúc mấy hồi còi rồi từ từ rời ga. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ đoàn tàu để được ngắm phố phường và phong cảnh hai bên đường. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cầu Long Biên thật đẹp. Người đi bộ, đi xe đạp, ô tô nối đuôi nhau thành đoàn  qua cầu trật tự. Dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa. Gió từ phía biển Đông thổi mát rượi. Qua Gia Lâm, Yên Viên, Đông Anh, tàu đưa chúng tôi qua những cánh đồng lúa chín vàng rực rỡ. Hai bên đường tàu có những hố tròn rộng chừng vài chục mét vuông là dấu vết của ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương ra trận. Những làng xóm nhấp nhô lùi lại đằng sau. Xa kia là dãy Tam Đảo hùng vĩ . Qua Vĩnh Yên,  tàu lao thẳng về hướng Tây Bắc đưa khách tiếp tục lên đường. Những tiếng rao của mấy bà bán hàng rong, mấy chú thanh niên choai choai bán nước chè nghe lạ lạ, vui tai. Hành khách đủ mọi thành phần. Từ anh cán bộ đi công tác, chú bộ đội trả phép đến ông bà về thăm quê  nội ngoại lẫn mấy chị, mấy anh buôn bán ngược xuôi chuyển hàng lên , hàng xuống. Mải mê quan sát, lắng nghe bao câu chuyện trên trời, dưới biển của khách đi tàu mà lãng quên cả thời gian .Rồi tàu chạy chầm chậm  qua cầu Việt Trì để vào ga. Tôi bỗng nhớ đến câu thơ của Tố Hữu :

“ Hà Nội, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi ”

Tôi hít thật sâu vào lồng ngực không khí của một miền đất mới và lòng chạnh nhớ tới bạn bè ngày nào vẫn thi nhau đọc từng câu trong thơ Tố Hữu. Tôi chưa biết Thái Nguyên, chưa đến Lao Cai, nhưng tôi đã qua Hà Nội, đã đến Việt Trì. Những địa danh thân yêu của Tổ quốc mình ngày nào trên sách vở hôm nay tôi đã được đi qua. Ra khỏi ga Việt Trì hai anh em cõng nhau cùng đồ đạc trên chiếc xe đạp của Bằng tìm đến xã Phù Ninh. Đường Quốc lộ số 2 hoang vắng, ít người qua lại, uốn lượn, lên xuống theo những quả đồi nhấp nhô làng xóm. Ngã ba Then là đất xã Phù Ninh. Ty Giáo dục đóng nhờ trong nhà dân. Mỗi phòng ban của Ty ở nhờ một nhà. Tìm đến phòng Tổ chức cán bộ, tiếp chúng tôi là một thầy giáo người to cao nhưng tính tình cởi mở, dễ chuyện trò. Biết chúng tôi là sinh viên trường Vinh, bác Nguyễn Cấn trưởng phòng tổ chức thông báo  : Năm học này có mười một sinh viên trường Vinh về Vĩnh Phú công tác . Ngày hôm qua có hai sinh viên  nhận quyết định về trường cấp III Yên Lập dạy học và đang nghỉ nhờ nhà dân, ngày mai mới vào trường. Bộ môn Hoá của các anh còn hai trường thiếu giáo viên là Đoan Hùng và Yên Lập. Từ Ty đến hai trường khoảng cách cũng bằng nhau. Hai anh thống nhất vơi nhau, ai về trường nào cũng được, tôi cho các anh tự chọn.  Vốn đã xa quê, không ai có người thân thích, lại không có vốn hiểu biết gì về miền đất mới, hai chúng tôi không ai đắn đo, suy nghĩ sẽ về đâu. Tôi bảo Bằng : “ Mày có xe đạp, mày đi một mình về trường cấp III Đoan Hùng, tao không có xe, tao về trường cấp III Yên Lập  cùng hai anh kia  cho có bạn đường”.  Tôi nhận quyết định về trường cấp III Yên Lập dạy học nhẹ nhàng như hành trang tôi mang theo. Hai anh kia cùng về Yên Lập là anh Phạm Mậu giáo viên môn Văn  quê ở Diễn Châu và anh Nguyễn Tiến Nghinh, giáo viên môn Sinh học quê ở Thạch Thành, Thanh Hoá.

Hôm sau tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao. Gia đình chủ nhà đều đã đi làm. Qua nhà hai anh Mậu và Nghinh nghỉ nhờ thì cửa đóng im. Gọi không có người thưa tôi đinh ninh hai anh đã lên đường .Bằng đưa tôi lên Phú Lộc trung tâm huyện đón ô tô khách đi Yên Lập. Chia tay nhau, Bằng đạp xe đi Đoan Hùng.  Trớ trêu thay hai anh Mậu, Nghinh lúc tôi gọi vẫn ngủ say như chết . Trong mơ màng nghe có tiếng gọi tên mình, nhưng là nơi đất lạ, có ai thân quen và biết mình đâu, nên chắc chỉ gọi trùng tên. Mấy ngày sau gặp nhau mới biết ngọn ngành là thế. Ở Phú Lộc, hỏi mọi người mới biết đã lâu không có xe đi Yên Lập. Lại tìm đường,  lủi thủi cuốc bộ một mình. Đến Phú Hộ gặp anh Nguyễn Phan Đường, bạn học thời phổ thông. Đường học Đại học sư phạm Hà Nội , cũng được phân công về Vĩnh Phú dạy học. Đường mách ra thị xã Phú Thọ may ra có xe đi Yên Lập. Bến xe thị xã Phú Thọ sơ tán không người. Xe khách đi Yên Lập cũng ngừng chạy từ lâu. Đang ngơ ngác thì bỗng nghe tiếng còi tàu rúc trước lúc vào ga. Vội vội vàng vàng đến ga thị xã Phú Thọ, mồ hôi nhễ nhại. Hỏi một chị phụ nữ bế con nhỏ đi từ sân ga ra xem có tàu đi Yên Lập không . Không trả lời câu hỏi của tôi, chị hỏi lại : “ Chú về Yên Lập à ”? Rồi chị mỉm cười nhìn vẻ mặt ngơ ngác , trẻ con gầy đen và hốc hác của tôi, chậm rãi : “ Không có tàu đi Yên Lập đâu chú a. Hãy  theo chị.  Chị cũng về Yên Lập”. Tôi tin và đi theo chị. Qua một nhà dân ngoài thị xã, tôi lén nhổ một chiếc cọc rào làm đòn, một bên  là ba lô, hành lý của tôi, một bên là chiếc túi du lịch căng phồng của chị để chị bế đưa con chưa đầy hai tuổi. Dọc đường, hỏi chuyện, biết chị tên là Nga, quê tận Hà Tây. Hai vợ chồng chị đều là công nhân giao thông trên cung đường Cẩm Khê- Yên Lập. Chị trở lại cơ quan sau mấy ngày nghỉ phép , đưa cháu về thăm bà ngoại.

Ra khỏi thị xã, hai chị em ghé vào một quán nước. Chuyện trò xởi lởi, bà chủ quán hỏi : “ Hai chị em về đâu ” ? Chị Bảo : “ Cháu về Yên Lập” .  Tôi như bị choáng khi nghe bà chủ quán nước hỏi lại : “ Hai chị em về tận châu Yên Lập kia à ”?  Với kiến thức đã học tôi hiểu Châu là một huyện miền núi. Yên Lập,  là một Châu, nghĩa là nơi đây sẽ là rừng thiêng, nước độc, sốt rét xanh người. Nơi tôi đến sẽ chồng chất khó khăn. Tôi tự trách mình đẫ không nhận về Đoan Hùng công tác. Và nỗi lo sợ nhất của tôi lúc này là bị bọn thổ phỉ bắt cóc. Ở huyện miền núi Kỳ Sơn, Nghệ An, nơi anh trai tôi công tác, bọn thổ phỉ Vang Pao thường vượt biên giới Việt-Lào vào các bản làng cướp bóc, giết người. Lo sợ nhưng không còn đường quay lại . Tôi mung lung và dấu ý nghĩ đó trong đầu, bước chân vô cảm đi theo chị. Đường dài thăm thẳm. Nắng hanh và khô. Nóng và khát. Chuyện trò giữa hai chị em cũng vơi dần. Bước chân nặng nhọc, lầm lì.

Hoàng hôn buông xuống, trời tối dần. May mắn thay, đang lúc mệt mỏi thì gặp chồng chị trên đường đón hai mẹ con. Anh giang tay đón con nhỏ trên tay chị. Anh ôm con thật chặt trong lòng sau hơn một tuần xa cách. Hai vợ chồng chuyện trò rối rít. Chợt nhớ tới người đang gồng gánh giúp chị trên cả quãng đường dài, anh trao con lại cho chị và giành lấy toàn bộ hành lý trên vai tôi. Không phải mang vác đồ đạc, tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhàng thoải mái . Tôi mở tung cúc áo, phanh lồng ngực đón luồng gió mát. Cũng may trời đã tối không có người qua lại. Còn đôi vợ chồng trẻ kia thì đang mải mê chuyện trò, thăm hỏi về gia đình, quê hương, bản quán nên không phải chiêm ngưỡng cái bụng lép kẹp và khung ngực gầy gò đầy xương sườn của tôi.

Đi khoảng một cây số nữa thì về đến cơ quan chị làm việc. Hai anh chị cũng chỉ sống trong một gian nhà tập thể làm bằng gỗ lá đơn sơ của hạt giao thông .Tắm giăt, ăn cơm tối xong thì đã hơn 9 giờ đêm. Anh chị đưa tôi  nghỉ nhờ tại nhà khách cơ quan. Lần đầu tiên trong đời tôi được ngủ nhà khách trong khu tập thể. Giúp việc tại nhà khách là một cô gái trẻ trạc tuổi tôi, người thanh mảnh, dịu dàng trong bộ quần áo đen. Mái tóc dài và đôi má lúm đồng tiền. Biết tôi là người miền trung, Thuỷ ( tên cô gái ) ngồi hỏi chuyện tận khuya. Tuổi trẻ thật vô tư, hồn nhiên và dễ gần gũi thân quen. Khi Thuỷ ra về,  đôi mắt díp lại đưa tôi chìm vào trong giấc ngủ.

Tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao. Đập vào mắt là một dãy núi hùng vĩ, cây cối rậm rạp, um tùm. Tiếng thác nước chẩy ầm ầm từ đâu vọng lại. Tối hôm qua, màn đêm đã che mắt, tiếng nói cười rộn ràng của khu tập thể đã bịt tai tôi. Một lần nữa lòng tôi lại rối bời, đầy lo âu, suy nghĩ. Cho tôi ăn cơm xong, anh chị Nga hướng dẫn tỷ mỷ đường đi đến trường cấp III Yên Lập. Lấy mấy đồng bạc và tem gạo để thanh toán tiền cho anh chị nhưng bị anh chị từ chối . Anh chị bảo tôi có dịp nhớ ghé lại thăm chơi . Sau này, mỗi khi đi qua con đường này, tôi đều ghé vào cùng anh chị như đến với người thân quen trong gia đình.

Chia tay vợ chồng chị Nga, tôi rảo bước vào Yên Lập. Dốc Đá thờ hoang vắng. Thác nước đổ ầm ầm tung bọt trắng. Những làn hơi nước bay lên, khí lạnh rợn người. Không làng xóm, nhà cửa. Đường vắng vẻ ít người qua lại. Cây cối um tùm, nứa và giang đổ xuống hai bên đường chắn cả lối đi. Thỉnh thoảng tôi mới gặp được một người đi ngược chiều. Vừa mừng lại vừa nơm nớp lo sợ. Không hiểu họ là người lương thiện hay là người của bọn phỉ dò la để đón bắt cóc mình. Đi qua mấy chục bước tôi lại ngoái đầu ngoảnh lại xem có gì bất trắc để phòng thân. Tôi cúi đầu bước đi lặng lẽ. Hai vai đau nhừ. Đôi chân bước chậm chạp nặng trĩu. Đang suy nghĩ vẩn vơ thì một khoảng không,  một cánh đồng, một bầu trời trong sáng hiện ra trước mặt. Tôi dừng bước thở phào nhẹ nhõm , ngắm nhìn trời đất rồi reo lên khe khẽ:  Ồ thế chứ Thế là mảnh đất Yên Lập lạ lẫm, xa xôi nơi tôi lập nghiệp đã trước mắt mình.

Kỷ niệm đầu tiên gắn liền với đời dạy học diễn ra từ khi mới đặt chân đến mảnh đất này. Biết đến trường đã trưa, tôi ghé vào cửa hàng ăn uống thương nghiệp nép mình dưới rặng cây Sở. Tiệm ăn vắng vẻ. Ngồi trong tiệm ăn chỉ có hai thanh niên còn trẻ,  kém tôi vài ba tuổi. Thấy một mình vai mang ba lô, tay xách túi vào tiệm ăn, cậu thanh niên lớn tuổi hơn nhìn tôi như tư thế của kẻ “ anh chị ”, hách dịch hất hàm hỏi  :

-      Đi đâu ?
-         Vào trường cấp III.
-         Làm gì ?
-         Xin học
Không hiểu sao lúc đó tôi lại nói dối. Cửa hàng ăn nghèo nàn chỉ duy nhất có món phở “không người lái”. Qua tiếp xúc, cách xưng hô tôi biết hai thanh niên này đều là con cháu ông cửa hàng trưởng. Rồi họ ra về. Nghỉ ngơi một lát tôi tiếp tục đến trường giữa lúc ban trưa. Trên đường, tôi vượt lên hai thanh niên vừa ngồi trong tiệm. Quá chừng vài chục bước chân, một tiếng giật gịong :

-         Này.
Ngoái đầu nhìn lại, không có biểu hiện gì tôi tiếp tục rảo bước.
-         Này, muốn vào xin học phải qua ông.
Một lần nữa ngoái nhìn lại. Im lặng, không có phản ứng gì. Tôi bước đi bình thản và mong sao chóng đến trường.

        Là trường miền núi mới được thành lập chỉ có sáu lớp, tôi phải dạy cả ba khối 8, 9, 10. Giờ lên lớp đầu tiên, từ trên bục giảng tôi nhận ra cậu thanh niên mấy hôm trước đã gặp ở tiệm ăn ngồi phía cuối. Hình như cậu cố tình ngồi thấp xuống mỗi khi tôi nhìn bao quát lớp. Tôi thản nhiên như không nhận ra cậu học sinh lớp 10B nghịch ngợm này, chỉ để lại trong đầu một kỷ niệm vui vui của ngày đầu lập nghiệp.

        Thời bấy giờ, đi lại khó khăn, phương tiện giao thông không có. Mọi thông tin đều rất hạn chế nên cùng một lúc có bốn thầy giáo người miền trung về đây dạy học là câu chuyện được nhiều người chú ý. Ở nơi xa xôi vắng vẻ này mọi người mới nghe đến mảnh đất miền trung là vùng xảy ra chiến tranh ác liệt, mảnh đất xứ Nghệ là quê hương của Bác Hồ, chứ  ít được giao lưu, hiểu biết về con người khu Bốn. Sự tò mò tìm hiểu của nhiều người đã vô tình đưa chúng tôi vào “ ống ngắm” mà mình không biết. Khi tiếp xúc ngoài xã hội, chúng tôi đang ngỡ ngàng tìm hiểu , làm quen ban đầu thì mọi người ở đây họ đã nắm được tên tuổi, môn học và nét riêng của giờ lên lớp mà mình phụ trách. Thậm chí có người còn so sánh với đồng nghiệp trước đây mà chúng tôi không biết tên, biết mặt.

         Điều đáng buồn là nhiều trường học các cấp lúc bấy giờ thường mất đoàn kết nội bộ. Trường chúng tôi cũng đang bị căn bệnh trầm kha đó. Có lẽ đó là căn bệnh của mấy ông “trí thức” rởm, hiểu biết nửa vời nhưng cho mình là tất cả là trung tâm vũ trụ ”. Mỗi người lý luận theo trình độ hiểu biết của bản thân. Không ai chịu ai nhất là trong chuyên môn, nghiệp vụ. Chúng tôi về trường vào năm học Hiệu trưởng chuyển đi một nơi khác. Nhúm người còn lại lập bè kéo cánh, phe phái nói xấu nhau để tranh giành chiếc ghế mà cuối cùng không ai giành được. Những giáo viên lâu năm công tác các trường khác họ cũng không muốn về đây , dù về để làm Hiệu trưởng. Nhà trường như rắn không đầu. Người được cấp trên giao nhiệm vụ phụ trách trường không tập hợp và điều hành nổi tập thể giáo viên. Các cuộc họp kéo dài không phải để đóng góp, hiến kế xây dựng nhà trường, trao đổi , nâng cao chất lượng dạy và học mà để tranh cãi, được, thua một vấn đề nào đó. Chi bộ Đảng yếu kém. Những chủ trương của chi bộ đưa ra không được quần chúng ủng hộ. Những việc liên quan đến bầu cử, bỏ phiếu do chi bộ chỉ đạo đều thất bại so với dự kiến. Tám năm liền không phát triển một đảng viên nào. Bốn anh em chúng tôi chỉ một mình anh Phạm Mậu là đảng viên được kết nạp từ  trường Đại học. Là người thẳng thắn, cương trực nhưng anh cũng long đong vì cương trực, thẳng thắn.  Anh Nguyễn Đức Hoán dạy Văn, không quan tâm đến đảng phái, tổ chức chính trị, chỉ chú ý đến chuyên môn giảng dạy, luôn đứng bên ngoài mọi cuộc tranh cãi nhưng anh sẵn sàng lên tiếng ủng hộ cái đúng, đả kích chua cay những việc làm sai dù đó là ai. Cũng không ít người không ưa anh vì thường bị anh dùng lời lẽ văn chương châm chọc. Anh Nguyễn Tiến Nghinh nhiệt tình, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, chia sẻ khó khăn với bạn bè nhưng có tật nói nhiều, nói lắm. Và cái thân anh cũng bị chịu nhiều thiệt thòi vì cái miệng hay nói của mình. Trong một môi trường sống như thế, tôi mong sao giữ mình không bị dòng lốc xoáy cuốn vào. Tôi đinh ninh tự nhủ mình làm sao để giữ được là con tốt trên bàn cờ và hãy phấn đấu làm con tốt đỏ. Mỗi người mỗi nết, một cách sống. Mới ra trường dù còn ít kinh nghiệm trong công tác nhưng may mắn là bốn anh em chúng tôi được đào tạo chính quy bài bản, ai cũng vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ . Đó là nền tảng vững chắc để chúng tôi tồn tại. Mãi tới năm học 1973-1974 trường mới được Ty Giáo dục điều về một Hiệu trưởng mới, lớp trẻ chúng tôi được định hướng đúng vào quỹ đạo .

         Mùa hè năm 1971, kết thúc năm học tôi về quê nghỉ cùng gia đình. Lúc này anh trai cả tôi do bị thương trong chiến đấu vừa được phục viên. Cũng thời gian đó gia đình tôi nhận được giấy báo tử của anh trai tôi là Nguyễn Đình Ứng. Một gia đình hai anh em là bộ đội. Một bị thương nặng trở về, một hy sinh nằm lại ở chiến trường. Sự mất mát, đau thương dồn dập đến. Cha mẹ tôi suy sụp cả tinh thần và sức khoẻ. Sự mất mát của gia đình tôi, cha mẹ tôi quá lớn. Một mùa hè nặng trĩu trong tôi.

         Năm 1972, không quân Mỹ quay lại ném bom, đánh phá miền Bắc. Đang chấm thi tốt nghiệp phổ thông tại trường cấp III Cẩm Khê, tôi được phụ trách trường gọi về làm hồ sơ đi công tác B ( đi miền Nam ). Do máy bay đánh phá ác liệt nên gia đình tôi ghi thư bảo tôi kỳ nghỉ hè này không được về quê. Đường vào khu Bốn vô cùng nguy hiểm. Nhưng tôi đã không nghe lời. Tôi muốn chuyến về quê lần này là để thử thách chính mình. Mai kia vào chiến trường, bom đạn còn ác liệt hơn nhiều. Đó là chuyến đi lịch sử.Từ Yên Lập, tôi cùng anh Phạm Mậu cơm nắm, nước chai với hai chiếc xe đạp lên đường. Qua Cổ Tiết huyện Tam Nông đang mải miết đạp xe, một hồi còi tuýt lên chói tai. Ba người mang băng đỏ  trên tay yêu cầu chúng tôi xuống xe để họ kiểm tra hành lý. Họ nghĩ hai chúng tôi là người đi buôn lậu hàng hoá. Khi biết chúng tôi là giáo viên trên đường về quê nghỉ hè, họ cười vui vẻ và căn dặn chúng tôi chú ý quan sát, giữ gìn đảm bảo an toàn trên đường đi. Đến Hà Nội trời đã về chiều. Cố tìm có phương tiện nào tốt hơn xe đạp không, nhưng đều thất vọng. Tàu khách, tàu hàng không có vì đường tàu bị đánh phá. Ô tô khách chỉ chạy vào đến Phủ Lý, Hà Nam mà chỉ nhận hành khách không có xe đạp. Người lái xe khách bảo chúng tôi, từ Hà Nội vào Phú Lý, các anh có xe đạp để đi là tốt lắm rồi. Thế là quyết định hành trình trên “ con ngựa sắt ” .Tại Hà Nội chúng tôi gặp anh Nguyễn Văn Tùng, bạn cùng lớp nhưng dạy học tại Hải Dương cùng về nghỉ hè nhập nhóm. Vào Thanh Hoá, máy bay bắn phá càng ác liệt . Có đoạn đường, chúng tôi chạy tới thì máy bay ném bom đằng sau. Khi thấy bị ném bom đằng trước thì dừng lại. Có những cây to bên đường lúc đi vào ba anh em còn lấy bóng mát nghỉ chân, lúc quay ra thay vào đó là những hố bom sâu, mùi thuốc nổ cháy còn khét lẹt. Ngày đạp xe, đêm vào nghỉ nhờ nhà dân. Thỉnh thoảng những loạt đạn pháo từ  Hạm đội bảy của Mỹ  ngoài biển bắn vào nổ ình oàng vẫn không ngăn nổi những đoàn xe, đoàn người tiến vào Nam. Đêm Nam Ngạn, Hàm Rồng, ba anh em chúng tôi ngủ trong một căn hầm ngay trong nhà dân, sáng hôm sau tỉnh dậy biết mình còn sống. Sự sống và cái chết ở đây cận kề trong gang tấc.

        Cuối tháng 12 năm 1972 âm lịch, đế quốc Mỹ dùng máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và Vĩnh Linh hòng gây sức ép trên bàn đàm phán tại hội nghị Pa Ri. Đón tết năm 1973 xong, tôi cưới vợ. Vợ tôi là cô nhân viên Bưu điện huyện và là học trò lớp Bổ túc văn hoá ban đêm mà tôi tham gia giảng dạy. Biết tôi chưa vợ, em là gái chưa chồng, những học sinh là cán bộ huyện đi học tích cực vun vào. Tôi  thường đến Bưu điện để gửi thư từ, điện tín về quê. Em giúp tôi nhiệt tình, chu đáo. Rồi yêu nhau cưới nhau để thành chồng, thành vợ. Đám cưới của chúng tôi được gia đình vợ cùng bạn bè tổ chức. Gia đình tôi từ Nghệ An không ai có mặt vì chiến tranh ác liệt, cha mẹ tôi đã già mà anh em tôi thì công tác xa. Tôi chỉ điện báo cho cha mẹ tôi biết là chúng tôi tổ chức xây dựng gia đình sau dịp tết nguyên đán.

        Sau khi tổ chức đám cưới được hai ngày, tôi được phụ trách trường thông báo miệng ngày 12 tháng giêng năm 1973, phải có mặt tại trường cấp III Vĩnh Tường để đi công tác B. Bố mẹ vợ tôi và anh em thương và chia sẻ cùng vợ chồng tôi, nhưng nhiệm vụ cấp trên giao vẫn là trên hết. Sáng sớm ngày 12 tháng giêng, hai vợ chồng, mỗi người một chiếc xe đạp lục tục lên đường. Chia tay nhau ở Bach Hạc, vợ tôi trở lại trường trung cấp Bưu điện Nam Hà để tiếp tục theo học. Tôi tiếp tục hành trình của mình tìm tới địa điểm học tập.

 Hai ngày sau khi đi,  nhà trường nơi tôi công tác nhận được điện gia đình báo tin cho tôi là cha tôi đã mất. Ông phụ trách trường cử một thầy giáo quê ở Vĩnh Tường  nhân về nghỉ chủ nhật ghé tìm tôi ở trường cấp III Vĩnh Tường để báo tin . Không gặp tôi, thầy giáo nọ cũng không tìm hiểu lý do cặn kẽ . Trở về trường anh báo cáo không tìm thấy tôi ở đó. Thế là  bàn luận nhỏ to, mỗi người một ý theo suy luận cá nhân. Qua  em vợ và học sinh người hàng xóm,  bố mẹ vợ tôi nhận được tin các thầy giáo bảo tôi sợ khó khăn, gian khổ nên đã đào ngũ và trốn đi theo vợ. Nhận tin đồn đó nhưng bố mẹ vợ tôi đành ngậm đắng nuốt cay vì không biết thực hư ra sao, không biết tôi ở đâu mà thư từ, liên hệ. Thực ra trường cấp III Vĩnh Tường chỉ là địa điểm tập trung của đoàn Vĩnh Phú. Trường Bồi dưỡng Cán bộ đi công tác B đóng ở thị trấn Bần, huyện Yên Nhân, Hưng Yên mới là nơi chúng tôi cùng các đoàn khác khắp miền Bắc tập trung về để dự bồi dưỡng.

         Sau thất bại của chiến dịch dùng máy bay B52 ném bom Hà Nội đế quốc Mỹ phải cúi đầu ký Hiệp định chấm dứt dùng không quân đánh phá miền Bắc vô điều kiện. Chiến dịch Điện Biên phủ trên không đã ghi lại mốc son lịch sử của kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trường chúng tôi học tập chuyển từ nơi sơ tán về địa điểm cũ. Được nghỉ một tuần, tôi đạp xe về Phủ Lý thăm vợ. Học cùng lớp vợ tôi có các anh là người làng cùng quê xứ Nghệ.  Sau nghỉ tết, trở lại trường các anh báo tin cho vợ tôi là cha tôi đã mất. Gặp nhau, vợ tôi im lặng không cho tôi biết tin cha tôi mất mà chỉ giục được mấy ngày nghỉ hai vợ chồng phải tranh thủ về quê. Lấy nhau, đây là lần đầu vợ tôi về quê chồng. Tranh thủ thời gian, chúng tôi xách túi lên tàu. Về gần đến đầu làng, gặp người quen  mới biết cha  không còn nữa. Một cảm giác khó tả dồn nén trong tôi. Ngực như có vật gì đè nặng nghẹt thở. Lặng im, không khóc, nhưng không nói được một lời nào. Vợ tôi âm thầm lặng lẽ theo tôi giữa miền đất lạ. Tôi chỉ bật khóc lên thật to, oà lên nức nở khi gặp người thân trong gia đình. Mùa Xuân năm 1973 với tôi đầy biến động. Cha tôi mất khi ông vào những phút cuối cùng trong đời biết tôi đã có vợ. Chắc ông mãn nguyện khi đứa con út của ông đã có gia đình nhỏ. Còn tôi, vô cùng ân hận khi cha nhắm mắt đã không được ở bên ông. Đã ngoài hai mươi tuổi mà tôi chưa khi nào làm được việc gì để đền đáp công sinh thành, dưỡng dục của cha. Nỗi đau và tình cảm ân hận đó suốt đời canh cánh trong tôi.

        Trung tâm bồi dưỡng cán bộ đi B ( miền Nam ) được đài địch gọi là trường biệt kích của Bắc Việt cộng sản. Tại trung tâm chúng tôi được bồi dưỡng quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và tình hình vùng giải phóng. Trong một lần nghe giảng, một bài học ngắn gọn qua một câu nói của Nguyễn Dự ( thế kỷ XVIII ) mà tôi thu hoạch được tại trường đã soi đường cho tôi phấn đấu làm theo cả một đời người. Đó là câu : “ Phàm xoay cái thế thiên hạ ở trí chứ không phải ở lực, thu tấm lòng thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo ”. Tôi thì không dám nói đến chữ thiên hạ mà chỉ dám nghĩ đến để vận dụng những việc xung quanh cuộc sống đời thường.

Sau hai tháng, lớp bồi dưỡng kết thúc. Chúng tôi được Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Chưởng đến động viên, dặn dò trở về , yên tâm công tác và chuẩn bị sẵn sàng, có lệnh là lên đường. Tan lớp bồi dưỡng, ghé thăm vợ, câu hỏi đầu tiên vợ hỏi tôi là : Anh bị ong đốt à ? Tôi phì cười với câu hỏi của vợ. Quả thật ở tuổi thanh niên, thiếu ăn, trong thời gian bồi dưỡng, chúng tôi được cung cấp thực phẩm tốt hơn những ngày đi dạy học nên chỉ mấy tháng thôi , được bồi dưỡng vật chất mà mặt tôi tròn như … cái đĩa ?!
Trở lại trường, mọi việc liên quan trong thời gian tôi đi dự lớp bồi dưỡng được làm sáng tỏ. Tôi không để tâm vào chuyện đã qua vì  những gì xảy ra đã kết thúc khi tôi báo cáo quá trình và kết quả thời gian học tập. Chỉ có bố vợ tôi là ấm ức và chửi những câu rất tục vì mấy thằng lãnh đạo trường đổ tiếng oan cho anh con rể quý. Sau này, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất nhiều giáo viên trường tôi như cô giáo Phạm Thị Tân, Nguyễn Thị Đăng, trong đó có cả anh Phạm Mậu lần lượt tăng cường cho giáo dục miền Nam. Tôi bị cấp trên “lãng quên” không gọi đến. Nói cấp trên không cho đi có lẽ đúng hơn.bởi lẽ cứ có dịp cử người tăng cường cho giáo dục phía Nam, chúng tôi ai cũng viết đơn xung phong tình nguyện, nhưng người đi cứ đi, người ở lại cứ ở lại. Chúng tôi không tự quyết định. Mọi quyết định đều do cấp trên xử lý Cấp trên trực tiếp chính là ông Hiệu trưởng sau này. Lý do tôi “ bị trù dập ” không được vào Nam là vì tôi làm việc có tinh thần trách nhiệm, lại trực tiếp  giúp việc hiệu quả cho Hiệu trưởng.

        Quãng đời 38 năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục,  hạnh phúc nhất là làm anh giáo viên trực tiếp đứng lớp, trực tiếp gảng dạy. Chỉ có trực tiếp, gần gũi, gắn bó với học sinh anh mới cảm nhận được hơi ấm của tình người, tình thầy trò. Chỉ có đứng lớp anh mới truyền được cho học sinh tình yêu thương, một thứ phi vật chất nhưng có sức mạnh bền vững muôn đời. Dù anh là ai, làm gì nhưng không có tình thương yêu, không có tấm lòng của con người với con người là không có tất cả. Nghề dạy học dễ có được chữ tâm, chữ tình nếu anh có tấm lòng yêu thương con người, yêu thương thế hệ trẻ. Trong cuộc sống tôi là người ít nói, khô khan trầm tính, nhưng khi lên lớp, tôi không còn là tôi nữa. Tôi trở thành người linh lợi, hoạt bát khác ngày thường. Tiếng Nghệ có thể khó nghe lúc chưa quen nhưng lại là “đặc sản” giúp tôi thu hút sự chú ý ban đầu của học trò. Tôi say mê truyền thụ, giảng giải, hướng dẫn các em học tập. Thầy và trò cùng nhau bay vào những miền xa xôi của khoa học. Sau mỗi giờ lên lớp tôi lại tìm tài liệu bổ sung, ghi lại những gì mà mình thấy chưa ổn. Dạy Hoá học thật vô nghĩa nếu mỗi bài giảng không giúp gì cho học sinh gắn kiến thức đựơc học với thực tế cuộc sống. Mỗi giờ lên lớp, mỗi bài tập, mỗi câu hỏi lý thuyết phải hướng cho học sinh cách nghĩ, cách làm. Câu hỏi thế nào? Tại sao ? đã thành nét riêng trong phong cách dạy học. Lại phải đọc, phải “ cày ”, ghi ghi chép chép, thậm chí phải “ăn trộm” kiến thức của đồng nghiệp về nhào nặn lại để trở thành cái riêng đặc sản của mình. Thầy và trò tự nhiên không còn khoảng cách. Khi đã tham gia công tác quản lý trường BTVH, tôi vẫn trực tiếp đứng lớp. Hết giờ học, một học viên là cán bộ lãnh đạo xã tâm sự, nếu ai cũng dạy học dễ hiểu như thầy giáo thì tôi cũng có thể đi học suốt đời. Sự gắn bó, động viên của phụ huynh, của học sinh và hoà hợp trong dạy và học đã tạo thêm sức mạnh, niềm đam mê nghề dạy học trong tôi.

Thật đáng tiếc 13 năm dạy học tại trường cấp III, tôi chỉ có 2 năm làm công tác chủ nhiệm. . Bây giờ đã về nghỉ chế độ, tôi vẫn không bao giờ quên những học sinh 8B, 9B ngày ấy. Thầy và trò chỉ hơn nhau chỉ bảy đến tám chín tuổi mà thôi. Tình cảm thầy trò gắn bó như tình cảm anh em trong một gia đình. Làm chủ nhiệm, tan lớp các em vẫn kéo nhau đến phòng thầy giáo nhõng nhẽo để bắt thầy phán xử những chuyện rất trẻ con ở lớp. Tết Nguyên đán năm 1970, hai an hem, tôi và anh Nguyễn Tiến Nghinh không về quê ăn tết. Ở lại trường, chúng tôi được phụ huynh thay nhau đón vể nhà vui tết cùng gia đình họ. Hàng ngày, học sinh đến chúc tết không gặp thầy, thế là không biết bao nhiêu bánh chưng, quà tết được để lại trên bàn qua cửa sổ hoặc treo ngay trước cửa phòng. Một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi. Chiều chiều, mấy anh em khu Bốn đói ăn vẫn ra quán mua thêm thứ gì đó đêm về cải thiện đời sống. Việc làm đó các học sinh đều quan sát biết đến. Thương thầy nhưng các em cũng nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thế nhưng có hôm ngủ dậy, mở cửa phòng ra ngoài, tôi thấy một tải sắn tươi được để ngay cửa phòng thầy giáo. Thương mình và thương học trò hơn. Ngày lớp học sinh tôi chủ nhiệm tốt nghiệp ra trường, lòng tôi thật khó tả. Chia tay các em, biết các em sẽ trưởng thành cùng thời gian và năm tháng nhưng lòng vẫn băn khoăn nuối tiếc những ngày tháng đã qua và băn khoăn không biết mai kia các em sẽ về đâu và có ngày nào gặp lại. Tình cảm ấy, cảm xúc ấy vẫn mãi mãi trong tôi . Danh sách 54 cái tên thân yêu : Đức Trọng, Chu Kim Đồng, Ngô Kim Tự, Thiết Hùng, Kim Hùng, Lều Hùng, Nguyễn Xuân, Nguyễn Lương, Hà Sinh, Hoàng Sinh, Nguyễn Loan, Bùi Quốc Hỷ, Bùi Thị Thành  .. vân vân và vân vân ,vẫn mãi mãi trong trí nhớ của tôi.


Vẫn dạy học, nhưng phải kiêm nhiệm thêm các nhiệm vụ khác như Bí thư đoàn trường, thư ký hội đồng không cho tôi cơ hội gần gũi các em học sinh như khi làm chủ nhiệm lớp. Tôi bước đầu làm quen với công tác quản lý. Trường miền núi  quy mô nhỏ nên chỉ có một Hiệu trưởng và một phó Hiệu trưởng giúp việc. Thời kỳ phó Hiệu trưởng đi học dài hạn, mỗi khi đi công tác, họp hành lâu ngày, công việc quản lý nhà trường ông đều giao lại cho tôi. Với tôi là một gánh nặng, nhưng cũng là cơ hội để tự chiêm nghiệm bản thân. Cũng không ít những đôi mắt đố kỵ, ghen tỵ khi có khách đến làm việc, hay tôi đứng ra xử lý các vụ việc mà Hiệu trưởng đi vắng. Trong con mắt một số người tôi là giáo viên còn ít tuổi đời, tuổi nghề, lại không phải là đảng viên mà chỉ là anh quần chúng.

        Công tác Bí thư đoàn trường thường được Chi bộ đảng giao cho đảng viên đảm nhiệm. Khi không có đảng viên, tôi phải gánh vác trách nhiệm đó.  Khi có đảng viên được điều về công tác Chi bộ phân công đẩng viên làm Bí thư, tôi được điều xuống làm anh phó giúp việc. Nhưng anh Bí, quá bí, không gánh vác nổi, phong trào bí, lại đưa anh phó lên thay. Những việc bố trí công tác luẩn quẩn như thế được giải thích là để thử thách quần chúng. Sau 8 năm đóng cửa, tôi là người đầu tiên vinh dự “ phá cánh cửa ” chi bộ trường cấp III Yên Lập để vào Đảng. Đó là năm 1977.

         Hiệu trưởng trường tôi sau này là một người năng động linh hoạt trong công tác quản lý. Ngoài việc chăm lo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của nhà trường , ông quan tâm mở rộng quan hệ với phụ huynh, lãnh đạo địa phương và nhân dân xung quanh trường đóng. Chăm lo nâng cao đời sống của giáo viên. Những năm 1978-1979 rừng bị tàn phá nặng nề. Đất trống, đồi trọc ngày càng nhiều chỉ dùng để chăn thả trâu bò. Diện tích đất được lâm trường trồng cây không đáng kể.Trồng cây nhưng bảo quản cây trồng thật khó. Rừng do lâm trường trồng là rừng của Nhà nước. Dân là dân của Nhà nước. Và cứ thế cây của Nhà nước theo dân của nhà nước về làm củi, làm chất đốt thoải mái quanh năm. Hiệu trưởng trường tôi có cách nghĩ và cách làm khác. Ông đã quan hệ với địa phương mượn đất, được cơ quan Lâm nghiệp hỗ trợ cây giống, ông đã tổ chức cho giáo viên, học sinh lao động, trồng lên hàng chục ha rừng. Việc bảo quản, ông hợp đồng với phụ huynh, nhân dân xung quanh rừng trồng với phương thức chia tỷ lệ phần trăm theo thành quả cuối cùng. Hàng chục ha rừng mọc lên xanh tươi giữa vùng đồi núi trọc. Bây giờ nhiều nông dân đã biết tự trồng rừng. Nhiều cán bộ công chức đã nhận trồng, bảo vệ rừng như phương thức ông Hiệu trưởng trường tôi đã làm gần hai chục năm trước . Đối với công việc nhà trường ông quan tâm đến hiệu quả hơn là phong trào bề nổi. Đặc biệt ông tìm cách phá rào cản về kinh tế để nâng cao đời sống cán bộ giáo viên, cho cả bản thân gia đình mình.  Nhưng sự năng động, sáng tạo, tiên phong mở đường đã đụng chạm vào thành trì quan liêu, bao cấp đang ngự trị. Lực lượng bảo thủ kết tội ông là làm việc vô nguyên tắc, mang tư tưởng cá nhân , tư hữu. Không chịu nổi cách nhìn nhận , đánh giá bảo thủ, ông xin chuyển công tác về một miền quê khác.

         Là người giúp việc đắc lực cho Hiệu trưởng, tôi cũng đã có lần thoát hiểm trong những việc làm như thế. Để có thêm công quỹ, nhà trường tổ chức cho học sinh lao động chăm sóc cây trồng cho ngành Lâm nghiệp. Thông thường, trong các buổi lao động các lớp dù đã hoàn thành khối lượng công việc được giao vẫn phải hỗ trợ, giúp đỡ các lớp chưa hoàn thành. Người ta coi đấy là giáo dục ý thức tương trợ tập thể, là ý thức  xã hội chủ nghĩa. Cứ như thế, trong lao động nảy sinh thói ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của lớp bạn. Cứ đủng đỉnh mà làm, nếu hết thời gian, công việc chưa hoàn thành đã có lớp khác đến giúp đỡ. Ai cũng nghĩ như vậy nên tiến độ việc làm hết sức trì trệ. Là Bí thư đoàn trường, được hỗ trợ cho một giáo viên chủ nhiệm lớp mới ra trường quản lý học sinh trong các buổi lao động. Nhận phần công việc được giao xong, tôi lên kế hoạch, tập trung lớp, hướng dẫn và phổ biến khối lượng công việc và yêu cầu cần đạt được, Tôi giao ước với các em hoàn thành công việc lúc nào, kiểm tra xong, tôi cho về nghỉ lúc đó. Kết quả lớp tôi phụ trách không khí lao động sôi nổi, hoàn thành mọi công việc trong nửa ngày. Học sinh lớp tôi ra về khi các lớp khác còn kéo dài cả ngày trong không khí làm việc uể oả, mệt mỏi.

        Sáng hôm sau đến trường tôi bị nhiều giáo viên công kích là thiếu tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, là thiếu tinh thần đoàn kết, là gần lãnh đạo vv… nên tự động cho học sinh về trước không báo cáo Ban lao động , vân vân và vân vân. Mặc dù lên tiếng công kích tôi như thế nhưng các giáo viên chủ nhiệm lại yêu cầu ban lao động có kế hoạch và giao khoán định mức cụ thể cho lớp họ và họ sẽ chủ động xử lý cả khối lương, chất lượng và thời gian lao động. Họ phản đối tôi nhưng lại thực hiện theo cách tôi đã từng làm. Tội tự chủ định đoạt khi khoán công việc trong lao động của nhà trường do tôi tiên phong gây ra tự nhiên bị chìm đi.

        Tháng 12 năm 1982, khi đang dạy học và công tác thuần thục, tôi “bị” điều đi làm Hiệu trưởng trường Bổ túc văn hoá dân chính huyện. Cấp trên không hề tham khảo nguyện vọng của tôi. Là giáo viên, được đi làm Hiệu trưởng, nhưng tôi không thấy thích thú gì. Đang dạy học phổ thông, học sinh là thanh niên tuổi mười lăm, mười bảy, mọi hoạt động sôi nổi có nền nếp lại phải chuyển sang công tác bổ túc văn hoá mà học viên là cán bộ, thanh niên cao tuổi. Tôi không muốn xa đàn em nhỏ thân thương, ngoài giờ học vẫn kéo nhau đến phòng thầy để “mách lẻo” và bắt thầy đứng ra phân xử những chuyện vu vơ của tuổi học trò. Còn Bổ túc văn hoá là ngành học không tên tuổi, cách làm việc tuỳ tiện, tự do, ai thích thì học, không thích thì bỏ. Giáo viên giảng dạy văn hoá chủ yếu là “lính đánh thuê” cũng tuỳ tiện, không ai quản lý. Giáo viên chuyên trách về BTVH thì chỉ đứng ra tổ chức, vận động người đến lớp nên chơi nhiều hơn làm việc. Có một câu ca về chuyên trách bổ túc có tự bao giờ cứ ảm ảnh theo tôi :

        Chuyên ăn, chuyên ngủ, chuyên chơi.
        Chuyên đi tán gái, chuyên ngồi bụi tre.

         Điều may mắn là khi tôi về trường, ngoài các lớp BTVH cấp II, trường bắt đầu mở các lớp BTVH cấp III. Ty Giáo dục điều về một số sinh viên vừa tốt nghiệp Đại học. Cơ sở vật chất nghèo nàn. Điều thuận lợi duy nhất là giáo viên của trường đa số được tôi giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng của phòng Giáo dục tổ chức trước đây. Họ vẫn tôn trọng coi tôi là thầy giáo của họ. Một số lại là phụ huynh học sinh khi tôi dạy học ở trường cấp III. Số giáo viên bổ sung mới ra trường còn trẻ. Họ còn thiếu kinh nghiệm nhưng nhiệt tình và có trách nhiệm. Chính điều kiện đó tạo cho tôi dễ dàng thống nhất các công việc cụ thể của trường và xây dựng tập thể đoàn kết thống nhất. Những lớp giáo viên đầu tiên cùng chung lưng chia ngọt, sẻ bùi ấy sau này đều trưởng thành trong công tác giáo dục. Trường chỉ có 2 phòng học. Học viên là cán bộ huyện, xã; thanh niên ưu tú được cử đi học tập trung nhưng  học không đều, bữa có mặt, buổi vắng mặt. Nghỉ học cũng chẳng cần báo cáo lý do. Giáo viên e ngại nể nang. E ngại về tuổi tác. Nể nang về thâm niên, chức vụ họ đảm nhiệm. Đi học không đều, điểm số không đủ, chất lượng yếu kém nhưng họ vẫn phải được lên lớp, cuối cấp vẫn phải tốt nghiệp. Học viên không lên lớp, không tốt nghiệp thì họ bỏ học, anh em lại phải mất công sức đi vận động họ trở lại trường. Tìm lời giải cho bài toán này thật đau đầu.

        Từ thực tế, trại giam Tân Lập gửi một số sĩ quan, chiến sỹ công an theo học, vì ở xa, số cán bộ này đều chuyển sinh hoạt đảng về chi bộ nhà trường. Chi bộ nhà trường tăng thêm nội dung sinh hoạt liên quan đến tổ chức, quản lý học tập của học viên. Từ thực tiễn này, trường đề xuất lên Huyện uỷ chuyển sinh hoạt đảng của toàn bộ đảng viên học viên về sinh hoạt cùng chi bộ nhà trường. Đề tài :“ Công tác Đảng trong trường Bổ túc văn hoá dân chính huyện”  bắt nguồn từ đó và được đánh giá  vận dụng có hiệu quả. Số đảng viên thuộc chi bộ tăng nhanh. Nội dung sinh hoạt chi bộ phong phú hẳn lên. Việc đánh giá, xếp loại đảng viên được tiến hành hàng tháng căn cứ trên nhiệm vụ chính là sĩ số, kết quả học tập hàng ngày. Giáo viên có trách nhiệm tăng cường kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập, phục vụ cho chi bộ có cơ sở đánh giá , xếp loại. Kỷ cương, nền nếp được củng cố bắt đầu từ đảng viên, cán bộ. Cũng có Bí thư Đảng uỷ suýt bị xoá tên khỏi danh sách đảng viên vì tự do nghỉ học quá nhiều, không đảm bảo chất lượng học tập. Sự cố gắng vươn lên của đảng viên trong việc duy trì sĩ số và chất lượng học tập đã tác động tích cực đến cán bộ, thanh niên trong lớp.

        Đội ngũ giáo viên , nhân viên là người tích cực ủng hộ chủ trương của chi bộ. Nhà trường dân chủ bàn bạc xây dựng nội quy, nền nếp, phong cách làm việc, thái độ ứng xử, giao tiếp  của đơn vị đặc thù học viên có nhiều thành phần, đối tượng. Giáo viên, nhân viên được phát huy quyền làm chủ, được học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn với giáo viên trường bạn. Ngoài giờ học, học viên được đối xử bình đẳng, quan tâm đúng mức về vật chất và tinh thần. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức giao lưu với các đơn vị ngoài nhà trường đã tạo nên niềm tin, vị thế của giáo viên, học viên. Vị trí, tiếng nói của nhà trường với xã hội đã có một nhận thức khác trước. Sự đổi mới trong tổ chức hoạt động đã thức dậy trách nhiệm, niềm tự hào của giáo viên, học viên là bước đi ban đầu quan trọng của trường Bổ túc Văn hoá Dân chính Yên Lập.

                                        *
                                      *      *

         Xây dựng các hoạt động của trường Bổ túc Văn hoá Dân chính huyện  vào nền nếp, tôi yên tâm gắn cuộc đời mình vào công việc âm thầm, lặng lẽ này. Nhưng một lần nữa, không như tôi tưởng, tháng 7-1987, sau năm năm gắn bó với trường tôi có Quyết định về làm phó Trưởng phòng Giáo dục huyện. Anh Hoàng Nhân, cán bộ phụ trách công tác Bổ túc văn hoá về thay tôi làm Hiệu trưởng . Lại một môi trường mới, nhiệm vụ mới và phương pháp làm việc mới. Tháng 9, sau khai giảng năm học, tôi được cử đi học lớp Bồi dưỡng công tác quản lý Giáo dục . Nói đi học tại trường Cán bộ quản lý gíao dục Trung ương tại Hà Nội thì oai lắm, nhưng  cuộc sống của học viên cán bộ quản lý gíáo dục thì thật khốn khổ. Anh Đinh Xuân Ngọc, phó Trưởng phòng Giáo dục Đoan Hùng, anh Nguyễn Thế Hải, cán bộ Sở giáo dục Lai Châu ở cùng tôi một phòng và nấu cơm ăn chung. Chiều chiều, mấy anh em thường ra chợ trên đường Giải phóng mua cá mè về làm thức ăn. Thấy mấy anh trung niên có vẻ bảnh bao thường xuyên mua cá mè, cô hàng cá hỏi :

-         Nhà các anh nuôi chó à ?
Một giây sững sờ rồi cả ba chợt hiểu ra, mỉm cười, đồng thanh :
-         Vâng, nhà các anh nuôi chó Nhật.

Sau thời kỳ nuôi lợn, dân Hà Nội lại đua nhau nuôi chó Nhật. Trên đường về, anh Hải ngẫu hứng hát : “ Ba chúng ta là ba con chó Nhật, trưa cá mè, tối lại cá mè ”. Ngẫu hứng thì hát vậy thôi chứ quy ra tiền thì chúng tôi làm sao bằng được chó Nhật. Một con chó Nhật giá khoảng 4 đến 5 triệu đồng mà lương của anh em chúng tôi, các phó Trưởng phòng, chuyên viên Sở cũng chỉ 150 đồng ( một trăm năm chục đồng ) đến 200 đ ( hai trăm đồng ) một tháng. Đời sống khó khăn, để có tiền trang trải mọi sinh hoạt tôi cũng học cách buôn bán , chạy chợ. Có tin cửa hàng Bách hoá tận đầu cầu Long Biên bán pin Con thỏ. Hết giờ học không nghỉ trưa đạp xe tức tốc từ Giáp bát đến Long Biên kiếm mấy đôi đem về cho vợ bán lấy tiên chênh lệch. Chuyến “làm ăn ” lãi nhất là mua và bán được chiếc đài bán dẫn Corona. Biết Bách hoá chợ Trời bán đài bán dẫn, tôi vội vã báo tin cho vợ chạy vạy lo “ ngân sách ” ! Gom đủ tiền, tôi cùng anh Lộc phó Hiệu trưởng trường Thanh Ba cùng anh Ngọc ôm túi tiền trị giá đến 6.000 đồng ra Bách hoá chợ Trời.  Anh Lộc trông xe đạp, anh Ngọc ôm tiền, tôi làm thủ tục giao dịch mua hàng. Bọn thanh niên chuyên chôm chỉa vây quanh. Mua đài xong ba anh em lên xe chuồn thẳng vì lừng khừng ở lại sợ rách việc với đám thanh niên mất dạy. Chiếc đài này mang về Yên Lập, bán lại cho dân Trung Sơn được 12.000 đồng. Thắng đậm.

         Ra trường, về phòng Giáo dục chuẩn bị kết thúc năm học, vừa lúc Nhà nước giảm biên chế và tổ chức sắp xếp lại bộ máy các phòng, ban của huyện. Phòng Giáo dục đang có ba lãnh đạo thì nay định biên chỉ còn hai, một trưởng và một phó. Anh Nguyễn Văn Lịch cán bộ nghiệp vụ, là chồng chị Nguyễn Thị Lâm, phó trưởng phòng, nheo mắt nhìn tôi : “ Cũng may ông Cử chưa khắc dấu chức danh, chắc ông lại chuyển về làm Hiệu trưởng trường Bồi dưỡng giáo viên ”.  Trong hai phó trưởng phòng, anh Lịch tin vợ anh là phụ nữ, đã giữ chức phó Trưởng phòng trước tôi nên sẽ ở lại, người ra đi phải là tôi. Mặt khác, tôi và chị Lâm thì chỉ tôi mới làm được Hiệu trưởng trường Bồi dưỡng giáo viên vì chị mới tốt nghiệp lớp trung học sư phạm hoàn chỉnh. Tôi nhìn anh Lịch cười nói : “  Đơn giản,  tôi được phân công làm gì, ở đâu cũng được ”. Không hề băn khoăn, nuối tiếc vì  sau khi được điều về phòng Giáo dục công tác tôi lại tiếp tục đi học, phòng Giáo dục chưa là nơi gắn bó, chưa là máu, là thịt của tôi. Chỉ tin tưởng rằng dù giảm biên chế kiểu gì thì tôi cũng không mất việc làm vì tôi còn trẻ, số lại được đào tạo ở bậc Đại học một cách bài bản, chính quy. Số giáo viên như tôi ở Yên Lập chưa nhiều.  Các trường cấp II, cấp III vẫn còn thiếu nhiều giáo viên đứng lớp mà tôi vốn là thợ dạy học.

         Ngày 30 tháng 4 năm 1988, sau hội nghị hướng dẫn kết thúc năm học cho các Hiệu trưởng tổ chức tại trường Phổ thông cơ sở Mỹ Lung, tôi về thẳng nhà, không ghé qua phòng Giáo dục vì hôm sau đã là ngày chủ nhật. Cả nhà đi vắng. Pha ấm nước chưa kịp uống, chú Hà Ngọc Anh, cán bộ phòng phụ trách bậc học Mầm non cũng vừa dự họp ở Mỹ Lung về, chạy xuống nhà riêng, vội vã thông báo :

-         Anh bây giờ làm Trưởng phòng đấy.
        -   Mày láo, nói thế là xúc phạm thủ trưởng và không sợ bác Xuân mắng cho à ?
-   Thật mà. Em về phòng nghe anh em ai cũng bảo thế. Huyện thông báo công khai trên đài truyền thanh nên ai cũng cũng nghe rõ cả.
         -   Làm gì có chuyện đó. Chú cứ xạo chứ tôi không tin. Thôi, cứ uống nước đi, chuyện xã hội sự thể thế nào hãy tính sau.

        Tôi ngỡ ngàng với thông tin mình được giao trách nhiệm làm Trưởng phòng Giáo dục. Bác Xuân Trưởng phòng của chúng tôi là người điểm đạm, đã kinh qua công tác quản lý giáo dục nhiều năm cũng mới ngoài 50 tuổi. Còn tôi, trong thâm tâm khi về phòng,  lâu dài tôi có thể đảm nhiệm được trách nhiệm Trưởng phòng Giáo dục. Đấy là chuyện lâu dài và có chút viển vông. Nhưng có chút cơ sở là tại thời điểm này chỉ có tôi có trình độ Đại học đào tạo chính quy, còn anh em cán bộ phòng chủ yếu có trình độ Cao đẳng hoặc Trung cấp sư phạm. Nếu thành hiện thực cũng phải từ 5 đến 7 năm nữa ví bác Xuân sức khoẻ còn dồi dào. Trong khoảng thời gian đó, tôi sẽ làm quen, học tập kinh nghiêm từ thực tiễn công việc và thủ trưởng trực tiếp của mình. Tôi không nghĩ mình được trao đảm đương tách nhiệm nhanh như vậy. Nhưng tôi cũng không hoang mang, lúng túng. Tôi có niềm tin vào bản thân  Không có việc gì mình không làm được. Thực tế của những năm tháng đứng lớp và tham gia quản lí giáo dục tạo cho tôi niềm tin. Bên cạnh đó một đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các trường hầu hết là học sinh tôi đã trực tiếp giảng dạy. Đến với họ không chỉ có tình đồng nghiệp mà còn có tình thầy trò.

         Thử thách đầu tiên là kỳ thi tốt nghiệp Phổ thông cơ sở. Bước vào công tác chuẩn bị, không ai có ý kiến gì nhưng anh em ai cũng lo lắng. Tôi vừa mới được bổ nhiệm, anh em chưa hiểu biết về tôi nhiều. Quy mô kỳ thi lớn,  Yên Lập là huyện miền núi địa hình phức tạp . Vấn đề nhân sự, kinh phí, công tác quản lý, bảo vệ an toàn cho kỳ thi vv…Không để lo lắng của anh em kéo dài, các bước cho tổ chức kỳ thi được thực hiện đúng trình tự . Tất cả đâu vào đấy. Kết thúc kỳ thi ai cũng thở phào nhẹ nhõm . Ngồi bên bàn nước, chị Lâm cùng anh em nghiệp vụ nói với tôi : “ Lúc đầu bọn em lo lắm. Lần đầu tiên anh phải điều hành và tổ chức kỳ thi tốt nghiệp. Sợ anh lúng túng, chưa quen. Bọn em không tin công việc được diễn ra suôn sẻ. Giờ thì chúng em yên tâm thật rồi ”. Tôi không biết trước đây anh em trong phòng đã phải lo lắng thay cho tôi như thế nào nhưng tôi thầm cảm ơn cộng đồng trách nhiệm, sự chia sẻ những khó khăn của anh em. Tôi càng biết ơn thầy giáo Nguyễn Nội, Hiệu trưởng của tôi khi còn là giáo viên trường cấp III Yên Lập. Khi giúp thầy làm thư ký hội đồng, thầy đã giao cho tôi nhiều việc. Kiểm tra học kỳ, thi thử cho học sinh lớp 10 …thầy đều giao cho tôi lên kế hoạch, tổ chức điều hành coi kiểm tra, rọc phách, tổ chức chấm bài, khớp phách lên điểm, đánh giá kết quả. Thầy chỉ là người chỉ đạo, cho ý kiến bổ sung, phê duyệt kế hoạch. Các bài học từ các hội đồng coi thi, chấm thi cấp III, BTVH đã giúp tôi  vững vàng trong điều hành công việc. Sự cần cù chịu khó học hỏi ngày hôm qua là cơ sở để xây dựng niềm tin của người đứng đầu cơ quan chập chững trên cương vị mới hôm nay.

         Khi nhận được Quyết định bổ nhiệm làm Trưởng phòng Giáo dục, hai vợ chồng tôi bàn bạc quyết tâm làm ngôi nhà mới. Không phải là Trưởng phòng thì phải có nhà để tương xứng với công việc tôi đảm nhiệm ngoài xã hội. Vấn đề là, việc chuẩn bị làm nhà hai vợ chồng tôi đã chuẩn bị từ mấy năm nay. Bây giờ tuy còn khó khăn nhưng  cố lên, sau này vợ chồng tôi sẽ thanh thản về tinh thần. Nhưng để vài năm sau mới làm nhà, chắc chắn tôi không tránh khỏi dư luận xã hội  dị nghị. Không bao giờ quên những ngày khó khăn ấy. Lương của giáo viên thường bị trả chậm từ 2 đến 3 tháng. Chiều 28 tháng 12 âm lịch năm 1988, các con tôi còn nhỏ, vợ tôi vẫn đi làm việc, mưa phùn nhẹ nhẹ, một mình tôi còng lưng gánh hơn tám khối cát, giải phóng lối đi cho bà con hàng xóm đi lại đón xuân mới. Đang mải mê xúc và gánh cát, bác Trần Kim Giao, Hiệu trưởng trường Tiểu học Đồng Thịnh đạp xe xuống gặp tôi ngoài đường và hỏi : “ Có lương chưa anh ” ?. Đang lao động cật lực, mồ hôi ướt đẫm mà lòng tôi se lại. Biết bao nhiêu cán bộ, giáo viên đang chờ nhận  đồng lương để chi tiêu vào dịp tết. Anh em chỉ trông chờ vào lãnh đạo. Mình là thủ trưởng của họ mà cũng chịu bất lực. Bản thân tôi cũng ngày đêm mong chờ có lương để trang trải thêm trong dịp tết. Có thể sau một vài năm khi cuộc sống vật chất tạm ổn định, tiền lương được chi trả kịp thời có người sẽ quên những ngày gian khổ. Nhưng đêm trước của sự đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp là thế đấy.

        Mồng sáu tết,  khởi công làm nhà thì nhận tin mẹ tôi ốm nặng . Vội vàng khăn gói về quê. Mưa phùn và gió bắc. Không chờ tàu, tôi nhảy lên bất kỳ phương tiện nào trên đường đi vào miền trung . May mắn lên được một chiếc xe tải  chở hàng và được đi ngay. Xe chạy thâu đêm, đến sáng xuống đến thành phố Vinh thì lại tìm phương tịên khác để về nhà. Chân bước thấp, bước cao chỉ mong sao để được chóng về bên mẹ. Mẹ tôi ốm nặng. Anh em tôi thay nhau chăm sóc nhưng mẹ tôi tuổi đã cao và sức đã yếu. Rồi chỉ được hơn chục ngày bên mẹ. Thương con, thương cháu mẹ luôn giục tôi quay về để đỡ đần cho vợ đương lúc làm nhà. Đó là lần cuối cùng của đời tôi được sống bên mẹ kính yêu. Điều mà tôi ân hận nhất là khi cha, mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng thì tôi đều không có mặt. Khi con về chỉ còn nắm hương tàn bên mồ đất lạnh , Người ra đi mà tấm lòng vẫn đau đáu giành tình cảm cho con, cho cháu. Thương cuộc sống của các con còn nhiều khó khăn vất vả. Ân hận duy nhất đời tôi là chưa bao giờ phụng dưỡng được được điều gì cho cha mẹ, khi cha mẹ tôi còn sống . Không đền đáp được công ơn, mà nhiều khi tôi vẫn làm cha mẹ phải phiền lòng.  Đã mấy chục năm trôi qua nhưng khi viết những dòng này tôi vẫn cảm thấy mình là đứa con tội lỗi và không sao cầm nổi nước mắt. Tôi có khóc bao nhiêu cũng không xoá được tội lỗi của mình với cha, với mẹ. Tôi là đứa con chưa làm tròn chữ hiếu.

        Những năm 1989-1990 tình hình kinh tế đất nước hết sức khó khăn, học sinh bỏ học hàng loạt khắp cả nước, nhất là miền núi và nông thôn nghèo khó. Lương giáo viên thấp lại bị trả chậm 2 đến 3 tháng. Nhiều giáo viên xin thôi việc, bỏ nghề để lần tìm con đường làm ăn khác. Anh em công tác tại phòng Giáo dục cũng muốn xin được chuyển về trường để có thời gian đỡ đần vợ con họ.Trong giới cán bộ, giáo viên, đâu đâu cũng vang lên bài ca Mười yêu khốn khổ :

                Một yêu anh có may ô
Hai yêu anh có cá khô ăn dần
Trước tình hình đó ngành giáo dục chủ trương tách trường Phổ thông cơ sở thành trường Tiểu học và thành lập trường Trung học cơ sở cụm xã. Yên Lập là một trong hai huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phú, địa bàn phức tạp, nhiều núi, lắm đèo, giao thông, phương tiện đi lại khó khăn . Phòng Giáo dục tham mưu cho Huyện uỷ và Uỷ ban nhân dân huyện tiến hành tách trường Phổ thông cơ sở thành trường Tiểu học và trường Trung học cơ sở đều nằm trên một xã mà không tiến hành cụm trường Trung học cơ sở. Sau này, khi kinh tế phát triển mỗi xã cần có một trường THCS,  ở các huyện tiến hành cụm trường THCS  muốn quay lại xây dựng trường ơ mỗi xã thì quỹ đất không còn nữa, thủ tục cấp đất lại rất phức tạp. Thực tế đã chứng minh, giáo dục Yên Lập đã chọn đường đi đúng, tránh được khó khăn về xây dựng CSVC và công tác tổ chức bộ máy nhà trường  sau này.

         Sự nghiệp đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đi vào cuộc sống. Cơ chế bảo thủ, quan liêu, bao cấp dần được xoá bỏ tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Lương và kinh phí hoạt động giáo dục được giao cho phòng Giáo dục quản lý. Những thủ tục để lĩnh lương và kinh phí hoạt động giáo dục vòng vèo trước đây được tháo gỡ. Tiền lương, tiền làm việc thêm giờ được chi trả kịp thời, đều đặn hàng tháng. Trong nguồn kinh phí được cấp phòng Giáo dục chi tiêu tiết kiệm, hợp lý . Cơ sở vật chất, tài liệu, thiết bị dạy học được trang bị mới làm thay đổi bộ mặt của nhà trường, của ngành giáo dục. Đội ngũ cán bộ, giáo viên phấn khởi, đời sống được nâng lên rõ rệt. Số lượng học sinh đến trường ngày càng đông. Lần đầu tiên các trường vùng cao, vùng xa được trang bị Ra di ô , Cát xéc, Ti vi cho tập thể giáo viên. Nơi chưa có điện khuyến khích giáo viên ngăn các dòng suối nhỏ làm thuỷ điện. Sau này, thực hiện Chương trình 135 của Chính phủ, các trường học được xây dựng khang trang. Đường ô tô vào đến tận xã. Điện lưới quốc gia về tận tới thôn bản là ước mơ tự ngàn đời của người dân miền núi. Nhiều năm sau, khi tôi đã về công tác ở Sở Giáo dục và Đào tạo, có dịp trở lại các bản vùng cao, ô tô đưa chúng tôi đi trên cả những giải  mây lưng chừng núi để đến các khu lẻ, lớp lẻ. Tôi không còn định hướng được con đường trước đây chúng tôi đã đi mở lớp tại các bản khe Nhồi, khe Bóp, rừng Măng, Ba bước. Ngày ấy, anh Triệu Văn Liên, người dân tộc Dao, phó Chủ tịch cùng một số cán bộ chủ chốt xã đưa anh em chúng tôi rẽ cỏ , theo lối mòn tìm đường về bản.  Bản nọ cách bản kia đến nửa ngày đường. Đêm đầu tiên nghỉ tại nhà trưởng bản Phùng Sinh Huyện. Ăn cơm, hấp tiu ( uống rượu ) xong, trưởng bản thông báo tối nay có đoàn bà con dân bản đến gặp cán bộ huyện. Đây là tình huống tôi không hề chuẩn bị. Mặc dù tham gia cấp uỷ và là Đại biểu Hội đồng nhân dân huyện nhưng tôi không được phân công đi công tác ở vùng cao của đồng bào dân tộc Dao cư trú. Tôi chỉ đi khảo sát tình hình để có kế hoạch mở lớp học cho trẻ em các bản vùng cao. Nhưng cuộc gặp thật đơn giản. Bà con lần lượt đến ngồi uống nước và thăm hỏi cán bộ dăm ba câu chuyện. Tôi vui vẻ trò chuyện nhưng cũng lo lắng chờ đợi những câu hỏi chất vấn, kiến nghị của đồng bào dân tộc ít người. Nhưng may mắn đã không ai đặt vấn đề đó với tôi. Rồi bà con lần lượt ra về. Sáng hôm sau anh Liên vừa tủm tỉm cười vừa vừa nói nhỏ : “ Đây là lần đầu tiên có cán bộ huyện đến bản. Tối hôm qua bà con kéo nhau đến là để xem mặt “ lãnh đạo ” đấy ông ạ . Tôi không ngờ mình là một trong những người đầu tiên đến với dân, với bản. Tôi chỉ là anh làm cán bộ quản lý giáo dục chứ đâu phải quan chức gì đâu mà quan trọng với bà con đồng bào dân tộc đến thế. Ngẫm lại, lãnh đạo và công chức Nhà nước sống và làm việc còn xa dân quá.

        Khảo sát thực tế, những điều mắt thấy tai nghe mà cứ ngỡ không là thực. Có những thanh niên, khoẻ mạnh đẹp trai nhưng không hề biết đọc, biết viết. Tại nhà trưởng bản khi được giới thiệu một thanh niên còn rất trẻ là con trai anh tôi hỏi :

-         Khi nào thì “ bắt vợ” cho nó  ?
-         Nó có vợ và hai con rồi.
Tôi tròn mắt ngạc nhiên hỏi lại :
-         Năm nay nó bao nhiêu tuổi ?
-         Hai mươi. anh thong thả trả lời.

Chuyện cùng anh mới biết, con trai anh “ bắt vợ” năm 17 tuổi. Còn anh lên chức ông nội năm 36 tuổi. Gia đình anh gồm bốn thế hệ ông bà- cha mẹ- con- cháu cùng chung sống.

         Từ chuyến công tác các bản vùng cao, chúng tôi quyết tâm mở lớp cho con em đồng bào dân tộc Dao theo học. Mỗi bản mở một lớp ghép nhiều nhiều độ tuổi, trình độ từ lớp 1 đến lớp 4 . Em nào đạt trình độ vào lớp 5, giáo viên cắm bản cùng UBND xã, trưởng bản vận động về xã Trung Sơn theo học tạo điều kiện để các em được tiếp xúc, mở rộng mối quan hệ ra ngoài xã hội. Khi hoạt động các lớp học đã đi vào nền nếp, tôi cứ nghĩ nếu có một tình thương yêu con người vô hạn và một quyết tâm cao, không có việc gì khó mà chúng ta không làm được.

         Nhưng không phải mọi việc đều thuận buồm xuôi gió. Tại cuộc họp Hội đồng nhân dân huyện có đại biểu chất vấn việc phòng Giáo dục tổ chức các lớp học tại các bản vùng cao của xã Nga Hoàng cũ có làm trái với chủ trương hạ sơn của Đảng và Nhà nước. Chất vấn phòng Giáo dục nhưng thực chất là chất vấn cá nhân tôi. Vốn đồng bào dân tộc Dao không biết tự bao giờ đã du canh du cư đến phát nương, làm rãy trên đầu các khe, suối xã Trung Sơn giáp Thu Cúc và Yên Bái và lập nên xã Nga Hoàng. Từ năm 1960-1961 được nhà nước vận động xuống định cư tại vùng chân núi Đù giữa xã Hưng Long và Thượng Long và vẫn mang tên xã cũ. Do quen nếp sống phát nương làm rẫy từ lâu đời , sau này một số gia đình quay lại các bản cũ dựng lều, trại tiếp tục phát nương làm rãy để tự túc lương thực. Rồi con cái lớn lên, dựng vợ, gả chồng họ lại tiếp tục định cư ở xã cũ mà trước đây cha ông họ đã ra đi. Các bản trên đầu các ngọn khe này lúc đầu cũng chỉ có dăm ba hộ. Theo thời gian trên các triền núi số hộ gia đình, số khẩu cũng tăng lên nhưng họ vẫn thuộc chính quyền xã Nga Hoàng quản lý.

         Phòng Giáo dục tổ chức mở các lớp học ở bản này là tạo điều kiện cho đồng bào Dao bỏ khu định cư quay lại sống trên núi, là đi ngược lại với chủ trương của Đảng với Nhà nước. ý kiến gay gắt, chì chiết. Đến phần trả lời các chất vấn, tôi giải trình rằng việc  vận động đồng bào dân tộc Dao xuống núi định cư và giúp họ làm ăn sinh sống theo tập quán mới là một nhiệm vụ lâu dài và phải được toàn Đảng bộ cùng nhiều cấp, nhiều ngành quan tâm, giúp đỡ. Với ngành giáo dục, trên địa bàn huyện, ở đâu có dân, ở đâu có trẻ thì ở đó con em họ phải được đi học. Nếu cho rằng việc mở lớp, tạo điều kiện cho con em đồng bào các dân tộc được đi học tại các bản vùng cao là đi ngược lại với chủ trương của Đảng và chính sách Nhà nước, chúng tôi chưa nhất trí và các lớp học được mở ra ở các bản xin vẫn được duy trì và phát triển. Kết thúc hội nghị cũng như sau này tôi không thấy thường trực Hội đồng có ý kiến hay chỉ đạo gì khác. Chỉ biết rằng hôm nay các lớp học bằng tranh tre đã biến mất. Thay vào đó là những lớp học mới xây nên, mái ngói đỏ tươi. Sĩ số mỗi lớp đã đông hơn và đã có nhiều học sinh các bản theo học ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện và tỉnh.

        Với bản tính của ông đồ xứ Nghệ, việc yêu cầu thực hiện đúng các quy định và quản lý chặt chẽ dạy và học để nâng cao chất lượng được quan tâm hàng đầu. Tư tưởng chỉ đạo đó được cán bộ phòng Giáo dục đồng tình, ủng hộ. Họ ủng hộ vì nhân dân đang nhìn vào họ. Con cháu họ đang trực tiếp hưởng thụ thành quả trực tiếp mà họ góp phần tạo dựng dù chỉ phạm vi một huyện. Tuy nhiên nâng cao chất lượng dạy và học là nhiệm vụ hết sức khó khăn mà kết quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan, cả trong và ngoài ngành giáo dục. Nhưng đây là nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của toàn ngành nên được tập thể lãnh đạo, chuyên viên của phòng quyết tâm thực hiện mặc dù thực tế còn nhiều khó khăn. Đó là yêu cầu trách nhiệm làm việc đúng mức của giáo viên, học sinh. Là kiểm tra, thanh tra, đánh giá xếp loại đúng với những gì mà bản thân nó có. Không vì những năm trước đó là đơn vị xếp thứ bậc nào, chỉ tập trung đánh giá vào kết quả hiện tại. Nếu nảy sinh ra tư tưởng làm ăn  gian dối, đối phó thì Hiệu trưởng và lãnh đạo trường phải lý giải tận cùng kết quả tự kiểm tra đánh giá của nhà trường và kiểm tra, thanh tra của phòng Giáo dục. Không thể chấp nhận trường vùng cao, vùng xa, thiếu giáo viên, các điều kiện dạy và học khó khăn mà kết quả học sinh xếp khá, giỏi, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cao hơn các trường gần khu trung tâm huyện, thuận lợi về nhiều mặt. Không thể để tình trạng “ làm thật ăn cháo, làm láo ăn cơm ” trong ngành giáo dục. Không thể để thầy cô giáo và học sinh sở hữu những gì mà bản thân mình không có. Và để rút kinh nghiệm chỉ đạo trong toàn huyện kỳ thi tốt nghiệp Trung học cơ sở năm học 1995-1996 lãnh đạo phòng chủ trương, ngoài bộ máy lãnh đạo hội đồng thi, điều toàn bộ giáo viên Tiểu học làm giám thị. Kết quả tốt nghiệp của  huyện Yên Lập vừa thấp nhất tỉnh vừa có một khoảng cách khá rộng so với kết quả thi của học sinh huyện khác. Lãnh đạo huyện, lãnh đao Sở xôn xao. Việc thi tốt nghiệp các cấp với kết quả trên 95 đến 100% đã là chuyện tất nhiên của bao năm nay. Đã đến trường là cuối năm phải lên lớp, cuối khoá phải tốt nghiệp đã trở thành nếp nghĩ, thành cách làm, đã trở thành căn bệnh mãn tính của nhiều cấp, nhiều người. Kết quả thi tốt nghiệp của Yên Lập thấp vừa “trái quy luật” vừa kéo theo hạ thấp thành tích chung của huyện. Thành tích, vai trò lãnh đạo phụ trách Văn hoá xã hội cũng bị ảnh hưởng. Một mắt xích đã làm ảnh hưởng cả dây chuyền. Một sự kiện đã ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều cấp. Mà làm người thì  không hiếm  “khi vui thì vỗ tay vào ”, khi có thành tích thì thành tích ấy là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của người nọ, cấp kia…!  Nhưng khi kết quả  ấy có nguy cơ làm ảnh hưởng đến họ thì  họ tìm mọi cách đùn đẩy mọi trách nhiệm cho người khác. Nào là không xin ý kiến chỉ đạo, nào là không báo cáo kịp thời vv và vv . Ai cũng sợ phải chịu vạ lây. Mọi “thiếu sót, khuyết điểm” đều quy kết cho Trưởng phòng Giáo dục. Đấy là không khí bên ngoài, còn anh em cán bộ phòng thì băn khoăn lo ngại trách nhiệm, mọi cơn bão đổ lên đầu thủ trưởng của mình. Có ý kiến của lãnh đạo cấp trên cho rằng, đưa giáo viên Tiểu học đi coi thi tốt nghiệp THCS là sai vì giáo viên Tiểu học không có nghiệp vụ làm thi bậc Trung học cơ sở. Nhưng rồi xem lại văn bản hướng dẫn nghiệp vụ việc coi thi của bậc Tiểu học và Trung học cơ sở không khác gì nhau. Tuy các trường phổ thông cơ sở không tồn tại nhưng Điều lệ trường Tiểu học Điều lệ trường THCS Bộ chưa kịp ban hành. Tính pháp lí vẫn phải thực hiện theo Điều lệ trường Phổ thông cơ sở và các văn bản hiện hành. Mà nhìn ra ngoài thì các trường Đại học họ vẫn đưa sinh viên cuối khoá đi coi thi tuyển sinh Đại học.  Mà nghiệp vụ coi thi của sinh viên thì chắc gì đã hơn các thầy cô giáo Tiểu học. Rồi dư luận thế này, dư luận thế kia nhưng về quy chế thì không ai bắt bẻ và chính thức kết luận vi phạm điều gì. Kết quả thi vẫn được Sở Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Qua kỳ thi, ngẫm nghĩ, thực tế đã chứng minh, một việc làm dù đúng đắn, đầy trách nhiệm, không phải bao giờ cũng được mọi người, lãnh đạo ủng hộ. Ấy là chưa nói đến chuyện có khi còn tai vạ vì dám làm khác ( không phải làm sai ).Biết vậy để góp nhặt vào kho tàng tri thức cuộc sống của bản thân chứ tôi không hề băn khoăn vào công việc đã làm mà mình là người chịu trách nhiệm. Nhưng 12 năm sau, khi đã nghỉ hưu tôi thật sự chua chát, đau lòng khi trong một cuộc gặp mặt tại một đơn vị của ngành giáo dục huyện. Đó là năm học 2007-2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương và nhiều biện pháp để lập lại kỷ cương trong giáo dục, đặc biệt là thi tốt nghiệp THPT thì (.... )  chặt chẽ, nghiêm túc các kì thi để đánh giá đúng thực chất kết quả dạy và học. Những đôi mắt đồng nghiệp cũ liếc nhìn sang tôi với nụ cười hài hước. Ngồi nghe lời vàng ngọc của cấp trên, tôi chợt nhớ tới câu “đối”  mà trước đây bên các bàn nước, ngồi chuyện tào lao mọi người thường nhắc đến : Thẳng thắn, thật thà thành thiếu thốn. Lèo lá luồn lọt lại lên lương. Ngày ấy mới dừng lại lên lương. Ngày nay còn lên được nhiều thứ lăm.?!

        Trong nhiều năm, báo cáo tổng kết của các trường học Yên Lập số học sinh giỏi không nhiều, số giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cũng khiêm tốn. Xét về thành tích, giáo dục Yên Lập không có bề nổi. Phòng họp phòng Giáo dục không trưng bày nhiều Bằng khen, Giấy khen của cấp trên. Nhưng điều tự hào là kết quả đạt đến mức nào thì nhận định, đánh giá đúng đến mức đó. Số học sinh tham gia thi tuyển vào các trường danh tiếng của tỉnh không nhiều nhưng khi vào học họ không thua kém học sinh các trường “ danh tiếng ” khác. Sau này khi về công tác tại Sở Giáo dục và Đào tạo có dịp tiếp xúc với nhiều giáo viên đã từng dạy học ở Yên Lập, tâm sự  : Họ biết làm việc, trưởng thành hôm nay có sự đóng góp ban đầu của những năm dạy học ở Yên Lập. Thời gian qua đi nhưng đội ngũ giáo viên, nhân dân phụ huynh vẫn nhắc đến một thời đã qua với tình cảm biết ơn thiết tha, trìu mến . Đó là phần thưởng cao quý nhất với tập thể đội ngũ làm công tác điều hành, chỉ đạo tại phòng Giáo dục và Đào tạo chúng tôi.

         Sau hơn mười năm  thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, sự nghiệp giáo dục của đất nước nói chung trong đó có các đơn vị, trường học mà tôi đã từng công tác đã phát triển không ngừng cả quy mô, mạng lưới, hình thức học tập. Thế hệ trẻ ngày nay thông minh, năng động. Tư duy của họ gắn với thực tiễn cuộc sống hơn thế hệ chúng tôi. Họ đã góp phần vào thời kỳ phát triển mới của đất nước. Giáo dục không tách rời nền kinh tế xã hội, chịu tác động của cơ chế thị trường. Quan hệ mua bán, xin cho không phải không diễn ra trong giáo dục. Khi việc dạy và học, nhà trường, thầy giáo, học sinh không còn phản ánh đúng thực tế bản thân mình , nên không còn được xã hội chấp nhận. Căn bệnh thành tích trong giáo dục, trong thi cử quá lớn. Sức ép nội tại đã gây ra sự bùng nổ từ các Hội đồng thi tốt nghiệp ở Hà Tây, Nghệ An, từ bản thân trong ngành giáo dục .
        
         Làm công tác quản lý giáo dục không thể không nghĩ đến công tác tổ chức, bồi dưỡng, quản lý con người, quản lý giáo viên, học sinh. Nói đến quản lý ai cũng nghĩ đến sự ràng buộc mọi người trong khuôn khổ của Quy chế, Điều lệ trường học, của Luật Công chức … Nói quản lý ai cũng thường nghĩ lãnh đạo là người đứng trên một số đông người để yêu cầu, bắt buộc họ phải thực hiện điều nọ, khoản kia. Nói đến quản lý, ai cũng chấp nhận ( hay phải chấp nhận ?! )  là lãnh đạo, là cấp trên đã nói đã làm là đúng. Mọi khuyết điểm, sai sót chỉ do yếu kém của cấp dưới mà thôi. Có thể cũng có người không hoàn toàn nhận thức như thế nhưng do tác động từ nhiều phía, sức ép của nhiều cấp, để tránh mọi phiền toái, lúc đầu họ đành im lặng cho qua chuyện. Nhưng im lặng là một hình thức đồng ý. Im lặng một lần, hai lần rồi nhiều lần đã thành thói quen trong cuộc sống của của giáo viên, của nhiều cán bộ công chức.

Làm lãnh đạo, làm người cán bộ quản lý sao không tự đặt mình vào vị trí của người bị quản lý, vào vị trí của số đông người, để suy nghĩ như họ suy nghĩ. Hãy sống như hoàn cảnh họ đang sống. Hãy hoá thân thành họ rồi tìm cách cùng họ tiến dần đến các khuôn khổ của Quy chế, Điều lệ …như anh từng thực hiện. Sao “ đôi mắt sáng” của người lãnh đạo, quản lý không đủ tinh tường để thấy rằng, bản thân họ tuy là người bị quản lý nhưng tư duy của họ, năng lực của họ nhiều chỗ còn khoa học, chính xác, phù hợp thực tế hơn lãnh đạo cấp trên. Cờ đến tay ai người ấy phất. Người bị lãnh đạo có được trao cờ đâu mà bảo họ không biết phất cờ. Phải biết kết hợp giữa công tác giáo dục nhận thức, tư tưởng , phát huy dân chủ với quản lý hành chính. Hãy giành những lời động viên, khích lệ, giành phần thưởng nhiều hơn xử phạt,  nhưng dù thưởng hay phạt đều phải đúng mức. Xử lý công việc làm sao để chính ngay bản thân người được thưởng hay bị xử phạt đều cảm thấy thoả đáng.

        Tôi nhớ mãi vào những năm 1996, phòng Giáo dục và Đào tạo được giao xây dựng “ Đề án phát triển Giáo dục Yên Lập giai đoạn 1996-2000.”  Khi nhận lại dự thảo trình lên lãnh đạo thì Mục tiêu giáo dục chung được trích nguyên Mục tiêu giáo dục do Bộ  Giáo dục và Đào tạo ban hành bị gạch nát và ghi ngoài lề là  câu dài, lủng củng. Tôi xanh mặt, lè lưỡi kinh ngạc. Một lãnh đạo đi lên từ cơ sở chỉ có trình độ tốt nghiệp Bổ túc văn hoá trung học đã dẫm đạp lên trí tuệ của các Giáo sư, Tiến sỹ đầu hói tóc bạc đang công tác nhiều ngành tận trung ương. Thật trớ trêu, chán ngán. Đâu chỉ có thế, sau này còn  một Kết luận mà mọi thầy cô giáo trong ngành giáo dục Yên Lập phải ấm ức thực hiện. Số là để chăm lo cuộc sống gia đình còn khó khăn, nhiều chị em tranh thủ làm việc ngày đêm cho công việc soạn bài, chấm bài vv…Cũng có lúc chị em tranh thủ việc khác khi không có giờ trên lớp hoặc những buổi chiều không phải đến trường. Thấy vậy, vị lãnh đạo nọ đã gọi trưởng phòng đến làm việc và kết luận buộc các thầy cô giáo phải có mặt làm việc 8 tiếng ở trường theo gìơ hành chính.  Lý giải, trình bày đặc thù của lao động trong ngành giáo dục, thuyết phục thế nào cũng không được chấp nhận. Trưởng phòng Giáo dục phải thông báo Kết luận của vị lãnh đạo cấp trên đến các trường thực hiện. Nhưng ai kiểm tra, ai tổng kết việc thực hiện Kết luận đó. Thực tế cuộc sống vẫn diễn ra theo đúng quy luật của cuộc sống. Các trường học không ai đồng tình và theo thời gian, kết luận đó cuốn theo chiều gió. Chân lý là sự thật hiển nhiên. Những gì không vào lòng dân, không chóng thì chầy đều tan vỡ. Kết luận bay đi rồi nhưng ấn tượng để lại trong tôi thì mãi mãi không phai mờ.

           Sau những năm đổi mới tư duy, cơ chế thị trường đã tác động vào giáo dục mà khâu đầu tiên là công tác tổ chức, điều phối giáo viên. Là huyện miền núi khó khăn ai cũng muốn công tác gần nhà, công tác ở nơi thuận lợi. Đó là nguyện vọng chính đáng của giáo viên, cán bộ. Để đạt được nguyện vọng giáo viên bắt đầu tìm đến gặp riêng lãnh đạo phòng, cán bộ phụ trách công tác tổ chức. Đã có ít nhất hai trường hơp để bảo vệ uy tín, tôi đã thu hồi và thay đổi quyết định ( thời bấy giờ việc sắp xếp điều động, thuyên chuyển giáo viên do phòng GD&ĐT quyết định ). Đó là nhân việc tôi đi công tác dài ngày, cán bộ phụ trách tổ chức đã tranh thủ tham mưu cho phó trưởng phòng ký quyết định cho giáo viên con một cán bộ phòng, mới ra trường dạy học ở khu trung tâm trong khi các giáo viên diện khó khăn công tác vùng cao vùng xa đã lâu năm xin về  chưa được giải quyết. Một trường hợp khác cũng là là người nhà của cán bộ phòng công tác ở vùng xa trung tâm đã nhiều năm. Khi người nhà đến găp và đề nghị được chuyển vựng, tụi nhận lời sẽ xem xét và quan tâm giải quyết. Trong thời gian chờ đợi và chuẩn bị bước vào năm học mới, giáo viên này công bố với mọi người sẽ chuyển trường vì đã đến nhà riêng gặp trưởng phòng. Tại thời điểm đó phòng GD&ĐT chưa họp bàn giải quyết sắp xếp giáo viên cho năm học mới. Sau khi kiểm tra thông tin chính xác việc giáo viên nọ phát ngôn là có thật, tôi đã kiên quyết  không cho giáo viên đó chuyển trường. (Cần nói thêm, trường hợp này bây giờ là láng giềng với tôi và mối quan hệ cá nhân vẫn rất thân thiện như ngày tôi còn công tác )

              Với thực tế đó tôi cùng cán bộ tổ chức mới sau này bàn bạc xây dựng quy chế về công tác tổ chức cán bộ. Nội dung chủ yếu là :   1) Việc thuyên chuyển giáo viên mỗi năm chỉ giải quyết một lần vào đầu năm học mới.   2) Giáo viên có nguyện vọng chuyển trường làm đơn đề nghị lên Hiệu trưởng nhà trường. Hiệu trưởng xem xét, có ý kiến đề nghị  và có trách nhiệm tập hợp, trực tiếp nộp đơn về bộ phận tổ chức của phòng giáo dục.   3) Lãnh đạo, cán bộ chuyên viên phòng Giáo dục và Đào tạo không nhận đơn trực tiếp từ giáo viên, người nhà  đến nộp hoặc do cơ quan hay tổ chức chuyển đến.

              Nội dung Quy chế làm việc mục đích giúp giữ gìn phẩm chất cán bộ, công chức, tránh được dị nghị và tiêu cực trong quan hệ cá nhân,  lại tạo điều kiện cho lãnh đạo, chuyên viên tập trung thời gian để làm việc. Giáo viên yên tâm, tin tưởng ở sự công khai, minh bạch . Thiết nghĩ việc xây dựng một quy chế làm việc như thế là hướng suy nghĩ và việc làm tích cực sẽ được lãnh đạo cấp trên ủng hộ

               Ấy thế mà không phải như tôi đã hí hửng mình và anh em đã làm được một điều tốt có tính nhân văn. Khi báo cáo lên người có cương vị hành chính cao nhất huyện thì Trưởng phòng nhận được một thùng nước lạnh : “ Thế tôi là Chủ tịch huyện cũng không có quyền chuyển đơn à ? Nếu phòng ( ý đích danh là tôi ) không huỷ bỏ Quyết định ban hành Quy chế làm việc này thì đích danh Chủ tịch huyện sẽ ra quyết định huỷ bỏ.” . Trưởng phòng GD&ĐT còn có con đường nào khác. Quy chế làm việc không được ban hành nhưng nội bộ cán bộ phòng vẫn thưc hiện theo quy định,  tuy không được công bố bằng văn bản. Những đề xuất của phòng GD trong việc thuyên chuyển giáo viên không được ghi nhận. Bắt đầu từ đấy phòng Giáo dục và Đào tạo bị thu hẹp dần quyền tự chủ công tác sắp xếp đội ngũ giáo viên để giao cho phòng Tổ chức cán bộ huyện đảm nhiệm. Không hiểu sau này việc sắp xếp giáo viên như thế nào nhưng tại thời điểm ban đầu, phòng Tổ chức cán bộ gặp nhiều lúng túng và gây không ít khó khăn cho hoạt động giảng dạy của toàn ngành. Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ mãi: Việc phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng Quy định về thuyên chuyển giáo viên, cán bộ có phải là nội dung, là yêu cầu của cải cách hành chính hay không ?

            Đây chỉ là những việc làm cụ thể, địa chỉ cụ thể. Đất nước mình, Tổ quốc mình đã và đang xảy ra bao nhiêu việc trái ngang như thế trong và ngoài ngành giáo dục. Nhân dân mình, cán bộ, công chức mình ở đâu đã phải gánh chịu những áp bức, bất công từ những những cái phẩy tay của những kẻ vô học nắm quyền hành.

         Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương theo phương thức ai làm gì hưởng lương theo việc đó không cần bằng cấp, trình độ đào tạo. Nhiều giáo viên có bằng tốt nghiệp Đại học, đang dạy Trung học phổ thông, lúc thừa biên chế điều động xuồng bậc Trung học cơ sở hay Tiểu học thì vui lòng hưởng lương bằng giáo viên có bằng tốt nghiệp Cao đẳng hoặc trung học sư phạm. Anh trưởng phòng trình độ Đại học và trưởng phòng trình độ trung cấp cùng chung một bậc lương.  Lương cán bộ chuyên viên phòng Giáo dục thấp hơn lương giáo viên đứng lớp. Phụ cấp trách nhiệm Trưởng phòng, phó trưởng phòng thấp hơn anh giáo viên làm tổ trưởng bộ môn trong khi phòng Giáo dục và Đào tạo  quản lý gần trăm đầu mối từ Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở trên một địa bàn rộng lớn cả ngàn giáo viên, cán bộ, nhân viên. Biên chế quản lý Nhà nước được “quan tâm” cho bốn hoặc năm người. Thỉnh thoảng anh em chuyên viên lại được ưu ái điều đi tăng cường làm nhiệm vụ khác theo yêu cầu của lãnh đạo Uỷ ban. Để thực hiện được nhiệm vụ, phòng Giáo dục và Đào tạo điều cán bộ quản lý hoặc giáo viên có kinh nghiệm, năng lực tăng cường về làm việc. Không ai muốn về phòng vì công việc nặng nề, thời gian làm việc căng hơn mà thu nhập hàng tháng giảm mất gần một phần tư. Thấu hiểu điều đó, khi điều cán bộ tăng cường về phòng Giáo dục và Đào tạo vẫn giữ nguyên chế độ, lương, phụ cấp vẫn được trả như lúc đang giảng dạy ở trường. Sự vận dụng đi vào lòng người ấy lại là việc làm “ sai quy định ” của Trưởng phòng. Lời ra, tiếng vào. Lại rung cây doạ khỉ. Lại Trưởng phòng Giáo dục quyền hạn to hơn cả ông nọ, bà kia… Lo cho đời sống của anh em mà tôi thì chịu trận. Biết vậy anh em lại một phen thót tim vì lo cho thủ trưởng của mình. Càng lo cho tôi, anh em càng kề vai sát cánh bên nhau vượt mọi khó khăn..

        Cái bất hợp lý không thể tồn tại mãi. Bốn năm sau khi tôi đã về Sở Giáo dục và Đào tạo công tác, anh em vui mừng thông báo cấp trên có Nghị quyết cho những giáo viên không thuộc biên chế quản lý Nhà nước, tăng cường về phòng Giáo dục được hưởng chế độ như giáo viên đứng lớp. Mừng cho anh em đã từng đồng cam cộng khổ được cấp trên vận dụng cho hưởng chế độ mà đáng ra họ vẫn được hưởng từ lâu (vui mừng cho bạn bè đồng nghiệp mà tôi đã quên không kịp hỏi cấp trên nào ra Nghị quyết ?! ). Niềm vui lẫn nỗi buồn. Buồn vì cùng một vấn đề, cùng một sự việc nhưng là quyết định tự chủ,  vận dụng sáng tạo của một cá nhân là việc làm sai nguyên tắc. Vẫn nội dung đó khi thành nghị quyết của một tổ chức nắm quyền lực lại thành chủ trương sáng suốt, là sự quan tâm. Không biết bao nhiêu nơi đã diễn ra cảnh ngộ ngọt ngào này. Vui cùng bạn bè chiêu đãi khi được hưởng đúng chế độ mà trong đầu tôi bỗng  nhớ tới  mấy câu thơ của Khổng văn Đương :
               
“Con xin hỏi Trời cao và Đức phật
                Cõi Niết bàn có mãi mãi mùa xuân
                Đâu trời Tây, đâu xa gần cực lạc
                Mà trần gian đầy khổ ải trầm luân.”

        Cơ chế quan liêu bao cấp đã để lại một thế hệ mang nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh học sinh. Đội ngũ cán bộ quản lý thiếu năng động sáng tạo. Giáo viên chỉ đâu đánh đấy, Yên Lập có khó khăn của miền núi. Khó khăn lớn nhất là chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi cách nghĩ, cách làm. Nhưng miền núi có cái thuận lợi của miền núi. Đất rộng, nguyên vật liệu của thiên nhiên phong phú nhưng hầu hết không được tận dụng phục vụ cho bản thân mình. Nhà ở tập thể dột nát, đêm nằm trong nhà ngắm cả trăng, cả sao. Vườn cọ rũ lá cạnh trường, bương tre làm hàng rào, làm chất đốt nhưng không ai biết nghĩ làm thế nào để căn nhà hết dột. Rừng là nơi cung cấp gỗ tự nhiên phong phú nhưng vẫn thiếu bàn, thiếu ghế cho học sinh. Chương trình 135 của Nhà nước thực sự làm đổi thay bộ mặt của các nhà trường. Lớp học, nhà điều hành được xây dựng khang trang nhưng cái lõi bên trong còn nghèo nàn lắm. Cảnh quan bên ngoài còn nhiều chỗ chắp vá. Để bổ sung một số vật dụng cho nhà trường, làm đổi thay một vài nét hình thức bên ngoài không khó. Cái khó là ở chỗ mỗi người tự suy nghĩ tìm bước đi thích hợp cho địa phương, cho nhà trường và bản thân mình. Tôi nhớ mãi một lần trên đường lên vùng cao công tác găp ba bốn thầy giáo khiêng chiếc máy phát điện trả về phòng Giáo dục và Đào tạo vì khi sử dụng bị hỏng một chi tiết nào đó, để phòng Giáo dục đi sửa chữa cho trường. Một việc không thể chịu đựng nổi, nhưng biết làm sao khi mình là người phải dìu dắt họ đổi thay dần từng bước đi trên con đường gập gềnh gian khó đó.
       
        Năm 1997 khi chúng tôi kết thúc lớp bồi dưỡng chuyên viên, tỉnh Vĩnh Phú được chia tách để tái lập hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Bộ máy cấp tỉnh chia làm hai. Anh Lê Tốn, trưởng phòng Đào tạo bồi dưỡng của Sở Giáo dục và Đào tạo dân Nghệ Tĩnh chuyển về Vĩnh Phúc. Mấy lần anh Lê Tốn gọi điện chuyển lời anh Hoàng Trường Kỳ, Giám đốc sở GD&ĐT Vĩnh Phúc ( nguyên phó Giám đốc Sở GD&ĐT Vĩnh Phú ) gợi ý muốn tôi về công tác tại sở GD&ĐT Vĩnh Phúc. Tôi trao đổi với vợ nhưng “ bà xã ” ngại chuyển đi Vĩnh Yên xa nhà ngoại. Sau này một chú em rể ở PC14 Công an tỉnh Vĩnh Phúc là người cùng làng anh Hoàng Trường Kỳ trách tôi mãi vì đã để tuột một cơ hội đổi đời.

        Mười ba năm công tác tại phòng Giáo dục và Đào tạo vừa thênh thang bằng phẳng vừa gập gềnh trắc trở. Đoạn đường bằng phẳng êm đềm dễ ru ta vào giấc ngủ. Những nẻo đường gập gềnh đầy chông gai buộc ta phải tìm bước đi thích hợp để không trượt ngã, xây xát, bươu đầu. Có bao nhiêu tấm lòng yêu thương đồng cảm, sẻ chia ? Có bao nhiêu đôi mắt lạnh lùng đang dõi theo mỗi bước ta đi ? Có bao nhiêu việc làm mà mỗi ngày qua phải tự phán xét, suy tư?  Không có gì là mãi mãi ưu điểm. Trong ưu điểm đã chứa mầm hoạ khuyết điểm, thiếu sót. Niềm tin vào con người, tin vào đồng đội là đức tính tốt. Có bao nhiêu đồng đội trung thực, thuỷ chung, bao nhiêu đồng đội lợi dụng niềm tin của mình để phục vụ mục đích cá nhân. Ai cũng là con người. Phần CON luôn trỗi dậy, phá phách theo bản năng hoang dã. Phần NGƯỜI phải đấu tranh chống chọi hết sức khó khăn, gian khổ để chiến thắng. Thời gian và người đời là vị quan toà sáng suốt, thông minh công bằng trong phán xét .

                                                *
                                              *       *

         Ngày 01 tháng 11 năm 2000, tôi được chuyển về Sở Giáo dục và Đào tạo làm việc. Xin nhấn mạnh từ được, bởi vì hai lần thay đổi công tác trước đây tôi không hề được tham khảo ý kiến. Nhiều người ngạc nhiên khi tôi chuyển công tác về Sở. Chiếc ghế tôi ngồi, dù chỉ là chiếc ghế trưởng phòng nhưng là ghế bọc nhung mà nhiều người mơ tưởng. Là chủ tài khoản chục tỷ đồng, là cơ quan quản lý hàng trăm thầy cô giáo có mối quan hệ với hàng ngàn phụ huynh học sinh đang giữ những cương vị lãnh đạo trong toàn huyện. Nếu biết khai thác những thuận lợi trong tay chắc chắn sẽ mang lại một đời sống kinh tế vững vàng. Tôi biết điều đó nhưng chỉ không khai thác. Nếu khai thác những gì mình đang quản lý của Nhà nước, khai thác những gì từ máu thịt của đồng loại, tôi mãi để lại phần CON trong đôi mắt của muôn NGƯỜI . Không khai thác “ tài nguyên” sẵn có để phục vụ cho mình và phục vụ cho một số người là điều  “ lãng phí ” là “ cứng nhắc” , là “ thiếu năng động” trong đôi mắt của nhiều CON người khác. Tôi xin để lại chiếc ghế bọc nhung kia cho những ai từng mong đợi. Mặt khác, khi cơ chế thị trường được chấp nhận, sự phát triển giữa các vùng miền, giữa đô thị và nông thôn sẽ có khoảng cách khá xa, tôi không muốn con cháu mình muôn đời phải định cư ở một vùng rừng núi xa xôi dù tôi đã gắn bó cả cuộc đời mình ở đó.  Tôi ra đi nhẹ nhàng, thanh thản không gánh nặng trên vai. Nhưng tôi vẫn mang theo nhiều thứ. Tôi mang theo tình cảm của bao người đã đồng cam cộng khổ. Mang theo tiếng cười rạng rỡ khi anh em chung lưng đấu cật cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Mang theo  cả tiếng thở dài và ánh mắt buồn chia sẻ khi phòng Giáo dục gặp khó khăn, khi biết tôi đang chịu những áp lực nặng nề. Tôi nhặt nhạnh hết thảy, nhặt thật sạch những điều tốt đẹp mà anh em, đồng nghiệp đã giành cho tôi trong những ngày chung sống, công tác để mang đi.

         Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo là nơi làm việc cuối cùng của đời công chức. Nhận nhiệm vụ mới một tháng, tôi bắt đầu tham gia thanh tra giáo dục. Dù là người khởi xướng, chỉ đạo giải quyết các thủ tục đưa tôi về Sở, nhưng những chuyến công tác đầu tiên, Giám đốc Sở bao giờ cũng trực tiếp về cơ sở để nghe  kết luận đợt thanh tra. Tôi hiểu ông đi kiểm tra nhận thức, quan điểm nhìn nhận và phong cách làm việc của tôi với cơ sở. Câu chuyện đưa tôi về Sở công tác được bắt đầu từ một cuộc chuyện trò bình thường, vui vẻ. Ấy là vào một ngày tháng 4 năm 2000, nhân một chuyến công tác về huyện trong đoàn kiểm tra của Ban văn hoá xã hội thuộc Hội đồng nhân dân tỉnh giải quyết vụ tố cáo con đồng chí Bí thư huyện uỷ, đại biểu HĐND tỉnh được cử đi học trường vùng cao Vịêt Bắc. Sự việc trên liên quan đến phòng Giáo dục, vì phòng là đơn vị giúp Uỷ ban Nhân dân huyện tập hợp và đề xuất danh sách đi học. Mà quan hệ phòng chuyên môn- Uỷ ban Nhân dân- Huyện Uỷ thì các thành viên trong đoàn ai cũng rõ. Đoàn kiểm tra làm việc với phòng Giáo dục chỉ hơn một tiếng đồng hồ. Giờ nghỉ trên đường về phòng Giáo dục, tôi nói đùa với Giám đốc Sở, là thành viên của đoàn :

- Anh thấy không, cơ sở chúng em khổ thế đấy. Việc gì cũng phải thực hiện, việc gì cũng phải hứng chịu. Ngoài Sở có thiếu văn thư cho em ra làm văn thư cũng được .
     Đang rảo bước Giám đốc Sở quay ngoắt lại :
        -  Thật chứ ? Đi nhé.
-         Em sẽ làm được gì để giúp anh.
-         Em về làm Chánh thanh tra Sở thay cho anh Huân sắp nghỉ hưu.
     Lúc này tôi biết anh nói thật chứ không còn là câu  chuyện vui đùa.  Tôi nhìn anh cười rồi tiếp lời :
-   Đây là việc hệ trọng, anh cho phép em suy nghĩ rồi báo cáo anh sau.
-          Nhất trí . Tam thời  thống nhất thế đã nhé.

        Quả thực tôi hơi đột ngột khi anh bảo tôi về làm Chánh thanh tra Sở. Tuy không hào hứng gì nhiệm vụ Trưởng phòng nữa nhưng tôi chưa ý thức chuẩn bị cho mình nơi công tác mới. Tôi chỉ nghĩ, không làm trưởng phòng thì về làm giáo viên trường THPT Yên Lập hay một trường cấp THCS nào cũng được. Giáo viên Hoá vẫn còn thiếu rất nhiều mà các trường miền núi thì chẳng mấy ai ở vùng ngoài muốn về đây giảng dạy.

         Kể từ đó, mỗi lần về công tác hay hội họp ở Sở, gặp tôi  anh lại hỏi : Đã trả lời anh được chưa ? Anh quan tâm bao nhiêu, tôi càng vị nể anh bấy nhiêu. Sau hơn hai tháng suy nghĩ về con đường gập gềnh đang dấn thân và tham khảo ý kiến những người thân nhất, tôi quyết định nhận lời anh. Tôi báo cáo bằng miệng, không giấy tờ, không đơn từ. Sau này tôi được biết, khi tôi nhận lời, anh đã thống nhất trong Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Sở và các cơ quan chức năng cấp tỉnh rồi mới quay về trao đổi với Bí thư huyện uỷ. Đó là một ngày cuối tháng Tám, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức bàn giao nhà điều hành cho trường Trung học cơ sở Ngọc Lập. Kinh phí xây dựng nhà điều hành do giáo viên trong toàn ngành đóng góp, ủng hộ. Tôi đi lại ngoài sân trường đón tiếp đại biểu các phòng Giáo dục và Đào tạo huyện bạn đến chứng kiến lễ nhận bàn giao. Giám đốc Hoàng Nga Tiến và Bí thư Huyện uỷ đang cùng nhau trao đổi trò chuyện ngoài sân trường. Vẫy tay gọi tôi đến, Giám đốc Sở chủ động :
                - Anh vừa trao đổi với Bí thư; Sở đang thiếu cán bộ, anh mời chú về Sở  làm việc cùng anh, ý kiến chú thế nào ?
         Tôi đáp :
-Thưa hai anh, em là đảng viên, là công chức Nhà nước; Đảng phân công làm  việc gì, Nhà trước bố trí làm việc ở đâu em đều chấp hành
          Bí thư tiếp lời:
- Thế không phải làm công tác tư tưởng nữa nhé.

        Bí thư huyện uỷ đã không mất thời gian để làm công tác tư tưởng vì tôi đã nhận lời về làm việc với Giám đốc Sở từ mấy tháng trước. Điều đáng nói là một Bí thư , lãnh đạo chính trị cả một đảng bộ lại không nắm được tư tưởng cá nhân cấp uỷ làm việc sát cơ quan huyện uỷ. Còn người không phải làm công tác tư tưởng lại đưa tôi lên tận trời xanh . “ Sở thiếu cán bộ”, “ Anh mời chú”, “ làm việc cùng anh” “ ý kiến chú thế nào”. Quả là những cụm từ đắt giá, có sức nặng, có giá trị lôi kéo của một người anh cả. Tôi là thằng đàn em, cả cái tỉnh này thiếu gì anh đang muốn và thừa sức về Sở làm Chánh thanh tra giáo dục mà anh lại ưu ái cho tôi. Hay anh đã nhìn nhận lại vụ thi tốt nghiệp năm 1975-1976 mà tự vấn lòng mình. Nhưng khâm phục là anh dùng lời lẽ hết sức tôn trọng tôi, một người bình thường của phòng Giáo dục Yên Lập, nhưng chắc sẽ hoàn thành được nhiệm vụ của một Chánh thanh tra Giáo dục trước mặt Bí thư huyện uỷ. 
         Về công tác tổ chức Đảng, là huyện uỷ viên, trưởng phòng chịu trách nhiệm trước BCH về lĩnh vực giáo dục huyện. Trong muời ba năm, tôi có dịp làm việc với ba đời Bí thư. Nếu như trước đây chỉ nghe nói sự mất đoàn kết, thiếu thống nhất trong lãnh đạo thì nay có dip hiểu biết thêm. Nhiều khi thấy mình là người đứng giữa hai làn đạn. Một bên là chính quyền điều hành, một bên là Đảng lãnh đạo. Nghiêng về phía nào không chết thì cũng dễ trở thành người “ tàn phế ”?! 
           Bí thư thứ nhất thuộc lớp người tham gia công tác vào những năm đầu hoà bình lập lại ở miền Bắc, thời kỳ của những kế hoạch 5 năm, những chỉ tiêu và chế độ bao cấp. Tư tưởng bảo thủ, thiếu năng động khá rõ nét. Hầu như trong thời gian ông lãnh đạo không để lại dấu ấn nào . Mà nếu để lại dấu ấn thì đó là dấu ấn thù dai, nhớ lâu như mọi người được công tác gần ông vẫn nói vậy. Dẫu ông là người quyết định phê duyệt tôi từ một anh Hiệu trưởng để về làm phó trưởng phòng rồi trưởng phòng, tôi cũng không thể có nhận xét nào khác. 
            Đầu thập kỷ 90 công cuộc đổi mới đòi hỏi có sự thay đổi nhân sự. Người kế nhiệm thuộc lớp người được đào tạo bài bản, có đầu óc tư duy nhanh nhậy, năng động nhưng ông quen làm việc theo kiểu hành chính, công chức nên không phù hợp với trình độ và thói quen trông chờ, ỷ lại của hầu hết người dưới quyền. Tính tình ông bộc trực, thẳng thắn, ông khen chê vỗ mặt nên cũng không phải ai cũng ưa ông. Tuy nhiên đã đề ra chủ trương nào là làm quyết liệt. Ông thể hiện phẩm chất của một tướng lĩnh trận mạc, nhà hành pháp hơn là người lãnh đạo. ưu điểm lớn nhất là không để bụng điều gì với người  “phản pháo” ông trong công việc. Giữ cương vị Bí thư huyện ủy hơn một năm, ông “ được” cấp trên điều về tỉnh. Thời gian đứng đầu làm người dẫn đường không nhiều, nhưng người khen ông cũng nhiều mà chê ông không ít. 
         Bí thư kế nhiệm thứ ba là một người đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ ông vốn là người đứng đầu cơ quan hành chính, do nội bộ mất đoàn kết mà phải ra đi. Khi quay lại không phải ai cũng chào đón ông, nhất là lớp cán bộ lâu năm. Dẫu trên cương vị mới, không thanh trừng được ai nhưng nội bộ lãnh đạo thiếu đoàn kết. Dẫu không công khai trên đấu  trường nhưng“ Nhà đỏ ”  chê “ nhà trắng ” trong điều hành, “ Nhà trắng” dù phải chấp hành nhưng cũng không phải khi nào cũng phục tùng “ Nhà đỏ ”. Cũng vì vậy mà cán bộ cấp dưới không dám thể hiện chính kiến khi đứng giữa hai làn đạn. Chệch về phía nào không chết cũng dễ trở thành thương binh không nặng thì nhẹ. Môi trường đó đã tạo nên những phẩm chất ba phải trong không ít cán bộ, công chức. Đến khi cả hai người đứng đầu không còn đảm nhiệm, khi được đi kèm chữ nguyên trước chức vụ, mọi lời đánh giá tốt xấu mới được dịp rộ lên. 
        Tuy chuyển về cơ quan mới nhưng Thủ trưởng các cơ sở giáo dục trong tỉnh  đã quen biết và có quan hệ từ trước nhưng nhiều người cũng thận trọng nghe ngóng thái độ và phong cách làm việc của tân Chánh thanh tra. Một anh đã kinh qua công tác quản lý giáo dục cơ sở, chui từ trong chăn ra, khắc anh ta biết rõ ngọn ngành nằm trong chăn ấm, rét thế nào. Mà cái thời buổi các  tiểu  hành  tinh phải  quay quanh nhiều “ mặt  trời ”, “  thời tiết” thất thường này anh nào dám chắc là mọi công việc điều hành do mình chịu trách nhiệm đã quay đúng quỹ đạo. Sau này khi đã hiểu nhau, nhiều đồng nghiệp  nói với tôi điều đó. Với cơ quan Thanh tra Sở, những đồng nghiệp cộng tác mới, tôi nhận thức điều quan trọng là thái độ cư xử, là cách sống của bản thân mình chứ không phải vấn đề tinh thông nghiệp vụ. Thực tế làm việc ở những cơ quan trước đây đã dạy tôi, và đưa tôi thành công trong việc xây dựng sự đoàn kết trong nộ bộ cơ quan. Công việc không quá mới. Bên tôi đã có các anh chị có kinh nghiệm và đã kinh qua công tác thanh tra nhiều năm. Vấn đề là anh có chịu học hỏi đồng nghiệp hay không. Thầy giáo chính là đồng nghiệp, trường học chính là cơ quan Thanh tra Sở. Thời gian học chính là những cuộc trao đổi, tranh luận những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn các cuộc thanh tra, là ý kiến phát biểu, đánh giá của các thành viên đoàn và ngay cả đối tượng đang trực tiếp bị thanh tra. Tôi lấy sự chân thành để làm phương châm cư xử trong cuộc sống. Với quan niệm người với người là bạn tôi không hề phân biệt chức vụ, nam nữ, già trẻ. Ai cũng cần được tôn trọng. Không thể đòi hỏi mình được người khác tôn trọng,  còn mình không tôn trọng người khác. Tôn trọng người bao nhiêu là tôn trọng mình bấy nhiêu. Tôi rất phấn khởi vui mừng khi từ cơ sở phản ánh,  khi gọi điện về cơ quan Thanh tra, ai cũng trả lời nhỏ nhẹ, nhã nhặn, văn minh, lịch sự. Chị Minh , phó Chánh thanh tra kể lại, có một công dân sau khi làm việc với chị đã thốt lên : Tôi cứ nghĩ lên đến Thanh tra Sở là ghê gớm lắm. Không ngờ ở đây các anh chị gần gũi,  tiếp đón chu đáo, hướng dẫn chúng tôi rất tận tình. Chính những điều mọi người coi là nhỏ nhặt, không để tâm đến, bỏ qua lại nhắc nhở, giúp tôi hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống.

         Bốn, năm anh em công tác tại cơ quan Thanh tra Sở gặp không ít khó khăn. Hầu hết lãnh đạo các cơ sở giáo dục và giáo viên ngại bị thanh tra, coi nghề thanh tra là bới lông tìm vết. Kết quả đánh giá của Thanh tra ảnh hưởng đến xếp loại thi đua khen thưởng của tập thể , cá nhân. Trong thời kỳ vàng thau lẫn lộn, thời kỳ chạy theo thành tích này không được khen cũng gây nhiều phiền hà. Bản thân thanh tra viên, cộng tác viên cũng là con người như bao người khác, cũng có quan hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp. Đặc biệt, đội ngũ cộng tác viên thanh tra. Hôm nay làm nhiệm vụ thanh tra nhưng ngày mai lại là người bị thanh tra. Họ cũng nhìn trước trông sau để giữ mình. Mặt khác, nhận xét đấnh giá, xếp loại hoạt động các cơ sở giáo dục chính là gián tiếp nhận xét, đánh giá, xếp loại Thủ trưởng , phó của Thủ trưởng cấp trên Thanh tra Sở bởi họ là người lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác giáo dục. Đó là bài toán khó. Thanh tra Sở cũng phải gánh chịu nhiều áp lực. Việc đánh giá kết quả trung thực, chính xác, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển và đảm bảo hài hoà mối quan hệ trên dưới hay không một phần quan trọng phụ thuộc vào trình độ, phương pháp làm việc của trưởng đoàn. Tập thể lãnh đạo cơ quan Thanh tra đã nhận thức và có nhiều cố gắng để thực hiện được điều đó. Tuy nhiên, trong đội ngũ hàng trăm cán bộ quản lý, hàng nghìn giáo viên không phải không có kẻ muốn dùng bàn tay của thanh tra Sở để giải quyết những mâu thuẫn nội bộ của đơn vị liên quan đến họ. Những bài học thực tiễn của cuộc sống cũng như luôn bám vào Luật và các văn bản pháp quy để xử lý các công việc đã giúp chúng tôi không bị sa vào những tấm lưới vô hình đó. 
         Sáu năm trôi nhanh, tôi đã kịp có thêm nhiều bạn mới, đồng nghiệp mới, niềm vui mới. Họ là những cán bộ quản lý cơ sở giáo dục. Họ là những đồng hương xa, đồng hương gần sinh sống, công tác trên đất Tổ, vua Hùng. Họ là những Cộng tác viên thanh tra đang dạy học ở cơ sở. Họ là giáo viên nhiều cấp đang giảng dạy ở các trường học, các trung tâm. Họ là láng giềng nơi tôi cư trú… nhưng gần gũi và thân thương nhất vẫn là những anh em trong cơ quan Thanh tra, các phòng chuyên môn của Sở đã cảm thông cho nhau với bao khó khăn, gian khổ, cùng hoà trong nhau chia ngọt sẻ bùi.  
        Thời gian công tác tại Thanh tra Sở không dài nhưng trải qua hai đời Giám đốc, Một Giám đốc coi Thanh tra sở là một bộ phận hữu cơ trong công tác quản lý của của mình nên ông gần gũi, nắm bắt kịp thời mọi diễn biến, tình hình và tạo điều kiện cho Thanh tra hoàn thành nhiệm vụ.Một Giám đốc lại coi Thanh tra sở như một công cụ hành chính khi có khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý thì sử dụng công cụ đó để xử lý giải quyết vấn đề.Hai đời Giám đốc để lại trong tôi và anh em thanh tra hai ấn tượng trái ngược nhau. Câu chuyện dân gian NHÂN DUNG MÔC không chỉ là câu chuyện của người xưa để dạy người mà là câu chuyện cuộc sống thường xuyên của cuộc đời, nhất là cuộc đời các nhà lãnh đạo, nhà quản lý đồi hỏi thường xuyên đổi mới về nhận thức, cách nghĩ, cách làm ?! 
        Ba mươi tám năm đi qua, nghỉ chế độ, tôi trở về cùng gia đình, vợ con và các cháu. Hành lý trên đường hồi hương không còn là chiếc ba lô cũ kỹ của ngày mới ra trường đi lập nghiệp. Không có túi đầy, túi vơi tích luỹ trong những năm tháng dài làm việc mà trong tôi nặng trĩu những kỷ niệm. Mãi bên tôi là mái nhà tranh nơi cha mẹ sinh mấy anh em tôi. Là lũ bạn chăn thả trâu trên bãi cỏ ven sông. Là luỹ tre, bến nước , là ngu ngơ của tuổi học trò. Hành trang là những lớp học tranh tre nứa lá ba bốn mươi năm trước, là những khuôn mặt thân thương rạng ngời của bao thế hệ học sinh, của đồng nghiệp với những kỷ niệm buồn vui trên nẻo đường của  ba mươi hai năm vất vả, gian nan góp sức xây dựng sự nghiệp giáo dục miền núi. Hành trang là cả tầng năm của toà nhà năm tầng cũ kỹ đầy nắng, đầy gió đầy tiếng cười cũng nhiều lúc phải suy tư. Trong trái tim tôi là tất cả nhưng trên vai tôi tĩnh không một thứ gì. Cái tôi có thời buổi này chắc chẳng ai hoặc còn rất ít người cần đến. Cái tôi cần đã trở thành máu thịt trong tôi. Nhưng cùng với thời gian và năm tháng tất cả sẽ trở thành cát bụi trong vũ trụ bao la.

                                Việt Trì, những ngày cuối năm Đinh Hợi
                                         Yên Lâp, mùa thu Tân Mão


Không có nhận xét nào: